Học lời Phật dạy qua Kinh Tử Pháp
Nội dung đoạn Kinh văn Phật dạy các đệ tử vạn vật là vô thường, thế gian là vô thường, phải chịu quy luật sinh, trụ, dị, diệt...
;
Nội dung đoạn Kinh văn Phật dạy các đệ tử vạn vật là vô thường, thế gian là vô thường, phải chịu quy luật sinh, trụ, dị, diệt...
Giáo pháp của Ngài (chỉ riêng tạng Pali) giúp chúng sanh sống được an lạc, tương lai được an lạc, đặc biệt giúp chúng sanh được giải thoát, niết bàn.
Người học Phật hiểu và hành trì bốn phép quán này đó là cái đích của học Phật. Học để đem lại cuộc sống an lạc hơn. Học để nhìn nhận cuộc sống đúng hơn.
Vì thành tựu giới đức và thấy được lỗi họa của các dục vị này mới có thể ly dục, tức là không sống với dục lạc thế tục (ác pháp), không mề mờ vô ký với dục (bất thiện pháp)
Trong kinh, những vật bất ly thân của một Tỷ kheo là: 3 y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, đồ lọc nước và gậy kinh hành: Các Tỷ kheo phải lọc nước trước khi uống nếu không phạm tội sát sinh.
Giải thoát là cởi bỏ sự trói buộc của phiền não, ràng buộc bởi sắc, ràng buộc của ý niệm sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Biết rằng sanh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử là khổ.
Người hành trì giáo lý Phật, khi đã hiểu rõ bản chất vô thường, vô ngã, vị ấy không còn cố giữ lấy cái ngũ uẩn không thuộc về mình.
Quá khứ đã biến đổi không còn cái của ta, không còn như ta yêu quý, cái sắc vị lai chưa đến ta chưa biết. Vì vậy đừng nhìn lại quá khứ của sắc, đừng tìm cầu tương lai của sắc
Vướng mắc vào sắc dục là căn nguyên của đau khổ. Chỉ có tuệ giác chân thực, tức là phải có chánh kiến, chánh tư duy mới có khả năng phân biệt đâu là khổ đâu là lạc.
Tâm Bi có công năng cứu khổ chúng sanh.Phật tử nào luôn chánh niệm tỉnh thức với niệm bi thương này vì xót thương trước nỗi khổ đau của chúng sanh đến rơi nước mắt, thì sẽ đồng với pháp tánh Đại Bi của chư Phật, chư Bồ Tát.
Sanh, lão, bệnh, tử là quy luật của vạn vật. Vạn vật, từ khi có mặt trong cuộc đời đến khi tan biến đều tuân theo quy luật sinh trụ dị diệt.
Người vô tri không thấy được tác hại của ái dục, tâm ý luôn hướng về ái dục. Trong Kinh Pháp Cú, Phẩm Ái Dục, Phật dạy, kẻ đi tìm ái dục cũng giống như một con vượn chuyền cành tìm trái, từ cành này sang cành khác.
Chánh là ngay thẳng. Tư (思) và Duy (惟) đều thuộc bộ tâm. Tư duy là quá trình vận hành của não bộ giúp con người suy nghĩ, xem xét, giải quyết những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống.
Vô thường là không chắc chắn, thay đổi, không trường tồn. Vô thường là đặc tính chung của mọi vật. Mọi vật sinh ra điều theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Khi hiểu rõ về Vô thường con người sống vui hơn. Vì biết rằng thân nhẹ nhàng như mây[2].
Ở mọi thời, mọi nơi chốn (không chấp trước thời khắc nào, chỗ nào), với tâm chơn thiện, rãi lòng từ (năng lượng yêu thương hay cầu nguyện), thì tương ưng với chư Phật chư Bồ Tát,(tức là chư Phật chư Bồ Tát gia bị), kết quả bất khả tư nghì.
Chân pháp của Như Lai là ánh sáng vi diệu, xua tan đêm trường khổ đau do vô minh chấp thủ của hữu tình chúng sanh, như sư tử hống, làm tan biến nỗi sợ hãi, ưu phiền, sinh tâm vô úy.
Trên nền tảng Nikàya (Pali tạng) trong sự liên hệ tương ưng với giáo pháp Đại Thừa (10.304 Từ)
Không nhìn thấy quỷ, chắc bạn chẳng tin, nhưng chuyện này có thật. Quỷ không nhìn thấy, mà nói chuyện quỷ sao tin ?
Do nhân duyên mà có, tưởng điên đảo mà sinh. Duy chỉ có tình thương là biểu pháp của tánh Đại Từ Đại Bi, là chơn thật. Đó là Phật Tánh.
Long Thọ Bồ tát chứng minh rằng, mọi khái niệm về sự vật, bằng tri thức, bằng lý luận đều sai lầm và mọi cố gắng nắm bắt như vậy đều vô vọng. Sự thật chỉ có thể đạt được bằng trực giác- trí huệ, bằng sự hiểu biết thần bí.