;
NHÀ LÝ
Mở đầu triều đại nhà Lý là Lý Công Uẩn (1010-1220)
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn
1010 – 1028)
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn,
Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974). Mẹ chết khi
mới sinh, thiền sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có
chí khí khác người ngay từ nhỏ. Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Vân và Lý
Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến
chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn
lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
đóng đô tại Hoa Lư. Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm Kỷ Dậu (1009) tháng 11 ngày
Quý Sửu. Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi
sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt
tên là kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay). Vua Thái Tổ chỉnh đốn lại
việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ, trị vì 18 năm, thọ 55 tuổi.
Lý Công Uẩn được hai Thiền sư uyên bác làm dưỡng phụ và tôn sư, dạy dỗ cả kinh điển Phật giáo lẫn Nho gia, dịch lý Đạo học, vì vậy Lý Công Uẩn đã có tầm nhìn chiến lược chính trị, kinh tế và xã hội trong sách lược an bang tế thế. Lúc còn dưới trướng nhà Lê, Lý Công Uẩn cũng đã biết đánh giá chiến lược về thời bình cũng như binh thuật trong thời chiến.
Mãi đến khi lên ngôi được một năm, ý định dời đô về trung tâm sông Hồng của Lý Công Uẩn mới thực hiện, nhưng để thực hiện điều nầy, thay vì dùng quyền lực của nhà vua để quyết định, Lý công Uẩn ra chiếu dời đô, phủ dụ phân tích thiệt hơn khi dùng đồng bằng làm đế đô để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Chính sự khôn ngoan và biết tôn trọng ý dân, quần Thần, Lý công Uẩn đã được toàn dân ủng hộ, âm phò dương trợ; nên để củng cố niềm tin của thần dân, Lý công Uẩn cho biết nơi thành Đại La có rồng xuất hiện, nên đặt nơi đây là Thăng Long. Quần thần tôn kính lập biểu dâng sớ tán đồng: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tuy lìa chốn cũ, vua Lý không quên quan tâm lòng dân bản xứ, nên đổi Hoa Lư thành phủ Trường An và làng Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức.
Về tôn giáo: Sau khi ổn định chính trị kinh tế và quân
sự, vua Lý Công Uẩn bắt đầu vun bồi tôn giáo để làm điểm tựa tâm linh cho thần
dân. Hơn ai hết, Lý Công Uẩn được xuất thân từ Thiền Môn, biết giá trị tâm linh
cũng như chính trị xã hội bấy giờ, tôn giáo là chất xúc tác gắn bó keo sơn lòng
dân trong xã hội. Vì vậy, nhà Lý đã nổ lực xây dựng chùa đình miếu mạo cung ứng
nhu cầu tín ngưỡng truyền thống cho nhân dân.
Năm 1018, Lý Thái Tổ sai hai quan là Phạm Hạc và Nguyễn Đạo Thanh sang Trung Quốc (đời Tống) thỉnh Tam Tạng kinh về thờ.
Chiến lược chính trị như thế, bị một số Nho gia phê phán qua hình thức xây dựng chùa miếu, tiếp chúng độ Tăng hơn nửa dân số trong nước, bảo là hoang phí tài nguyên bóc lột công sức người dân. Thử hỏi, nếu nhà vua làm không được nhân dân đồng thuận thì liệu xã hội có được yên bình thịnh vượng như thế chăng?
Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:
Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm Tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là Thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư?
Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?
Nho gia đố kỵ phê phán như có lý, nhưng thực tình kết quả việc làm của Thái tổ đã nhờ tài khôn khéo về tâm lý chính trị đó mà Lý Thái Tổ đã ổn định nội tình, an bình xã hội, quần chúng quy về một mối và thuận thảo với ngoại bang.
Quốc gia thịnh trị thời quân chủ, không chỉ trên phương diện kinh tế, tín ngưỡng góp phần lớn để an dân, thạnh trị. Từ Tây sang Đông đều như thế, tôn giáo tín ngưỡng luôn là điểm tựa tinh thần cho người dân sau kinh tế và cơm ăn áo mặt vừa đủ. Nhà lãnh đạo khôn ngoan luôn tôn trọng tín ngưỡng quần chúng và tạo điều kiện cho tín ngưỡng đó phát triển.
Về Chính Trị: Về mặt lịch sử đương thời, Việt Nam chỉ phải đối đầu với các lân bang là Trung Quốc, Chiêm Thành và Chân Lạp. Theo lịch sử thì Tống Chân Tông phải đối diện với nhiều vấn đề nội tình nên không có thời giờ dòm ngó Đại Việt, chẳng những thế mà còn phong cho vua Lý Thái Tổ làm Nam Bình Vương (1017). Còn Chiêm Thành và Chân Lạp đều triều cống hàng năm, nên biên cương ổn định, xã hội thịnh vượng, dân cư lạc nghiệp. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi một số bộ tộc làm loạn, buộc lòng vua và các Hoàng Thái tử được phong vương thân chinh đánh dẹp. Trong lúc dẹp loạn, vua luôn nơm nớp lo sợ giết lầm người hiền hoặc giết oan kẻ trung hiếu, nên vua khấn vái đất trời: "Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy.
Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét". Sau khi ông khấn, gió sấm không còn dữ dội nữa và trở nên yên lặng tại trận Diễn Châu.
Tóm lại, tuy xuất thân từ Thiền Môn, bản chất là một Phật tử luôn tôn trọng sự sống, nhưng vì nhiệm vụ với đất nước, vì an sinh xã hội, buộc lòng vua Lý Thái Tổ phải sát phạt các nơi dấy loạn để mở mang bờ cõi, yên bình xã hội. Thể hiện đúng tinh thần Bi-Trí-Dũng của nhà Phật.
Lý Thái Tổ là một mẫu người Phật tử, có công với nước, có đức với dân, có hiếu với Đạo. Đã làm rạng rỡ Đại Việt cũng như phát triển Phật giáo đương đại. Tuy nhiên, các thế hệ triều Lý kế thừa, một số tranh chấp vương vị không thua các triều đại trước như các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân vây hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái Tử Lý Phật Mã (Lý Thái Tông).
Cũng có triều đại ăn chơi sa đọa như Lý Cao Tông, say sưa suốt ngày như Lý Huệ Tông, nhưng không độc ác như Lê Long Đỉnh.
Cũng có triều đại mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước như - Lý Thái Tông, tức Lý Phật Mã (1028-1054); xây dựng lực lượng quân đội và quần chúng để tạo thế mạnh toàn dân bảo vệ tổ quốc; vua biết thân dân và giao hảo tốt với dân tộc thiểu số, gả công chúa Bình Dương cho Châu Lạng... Lý Thái Tông cũng ban Hình Thư vào năm 1042. Đây là sách luật đầu tiên của Việt Nam gồm luật dân sự, luật hình sự, luật tố tụng và hôn nhân gia đình.
Cũng có đời vua biết thương dân, quan tâm sự ấm no đói lạnh của dân và thương tội phạm như Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054-1072).
Qua 9 triều đại nhà Lý 1009-1225, chỉ có ba vị là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, ảnh hưởng tinh thần đạo đức Phật giáo sâu đậm. Tuy nhiên, vua Lý Thánh Tông, húy Nhật Tôn, có trách nhiệm với tổ quốc và biết thương dân, có sáng kiến khôi phục kinh tế, an dân, mở mang bờ cõi, được xem là một vị vua anh minh nhân từ nhất trong lịch sử:
Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054 – 1072)
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023),
là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai. Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt
sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa,
thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục
người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc
võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo
Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”. Lý Thánh Tông mất năm
Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
Ngay sau khi lên ngôi, vua Thánh Tông đổi
quốc hiệu là Đại Việt. Lý Thánh
Tông là một vị vua có lòng thương dân. Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo
các quan hầu cận rằng:
"Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét thế này. Huống chi những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm".
Hoặc - "Lại có một hôm, Thánh Tông ra
ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh
Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng:
"Lòng trẫm yêu dân cũng nhý yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi."
Vua cũng đã có công mở rộng biên cương - phá Tống bình Chiêm, có tiếng giỏi binh pháp, nhà Tống cũng phải học hỏi phiên chế quân đội Đại Việt lúc bấy giờ. Vua từng làm nhà Tống thất điên bát đảo, bắt được tướng nhà Tống là Dương Bảo Tài. Nhiều lần phản công bị thất bại, Tống phải sai sứ cầu hòa, nhưng vua cương quyết không trao tù binh Dương Bảo Tài. Phía Nam, Chiêm Thành làm loạn, vua thân chinh đi đánh, bắt được Chế Củ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước. Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị (Wikipedia).
Như một quy luật - Thành-trụ-hoại-không,
tuy các tiên đế đức độ tài ba, lập quốc an dân, mở mang bờ cõi, thế nhưng, các
triều đại về sau, bê tha bất tài, đã bị các đại thần khống chế như Trần Thủ Độ.
Đời Lý cuối cùng là Lý Huệ Tông bị Thủ Độ ép xuất gia để rồi bức tử, nhường
ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Không lâu sau đó, ngai vàng chuyển qua nhà
Trần, vua Trần đầu tiên là Trần Cảnh, được hơn 8 tuổi, theo sự chỉ đạo của Trần
Thủ Độ.
Nhà Lý tồn tại từ 1009 đến 1225, tức 216 năm. Một triều đại giữ vững ngai vàng lâu dài nhất so với các triều đại tiền nhiệm. Triều Lý phát triển kinh tế văn hóa khá sâu đậm, lập Văn miếu, Quốc Tử giám chọn hiền tài ngoài giới quý tộc, tôn trọng Nho giáo song song Phật giáo. Quản lý đất nước theo luật pháp mà không do chuyên quyền cá nhân áp đặt, đây là nét văn minh của thể chế phong kiến lúc bấy giờ.
Theo nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong "Đại Việt sử ký toàn thư" thì:
Cũng có đời vua như Lý Thần Tông (1128-1138) lấy nông nghiệp làm cơ bản phát triển kinh tế làm cho dân no ấm. Luân phiên cho quân nghỉ 6 tháng về canh tác, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông".
Qua những suy vi của triều Lý, một phần do vua Lý Cao Tông tắc trách, ăn chơi sa đọa, bất tài, nghe theo nịnh thần, làm cho dân đói kém chết chóc quá nhiều, vì thế loạn lạc nổi lên khắp nơi; một phần do đại thần Trần Thủ Ðộ khuynh loát thao túng triều chính, bắt ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Do cảnh loạn lạc trong nước và triều Lý thất sủng, nên Lý Long Tường, hoàng tử của Lý Anh Tông, theo đường biển, chạy tỵ nạn sang Cao Ly, được vua Triều Tiên phong tặng Hoa Sơn tướng quân nước Cao Ly lúc bấy giờ. Và từ đó Lý Long Tường trở thành tổ của giòng họ Lý đầu tiên tại Hàn quốc.
Tóm lại, Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết: “Triều đại nhà Lý là Triều đại thuần từ nhất
trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”.
Các vua đời Lý so sánh với
các vua Đinh, Lê thì giỏi hơn rất nhiều về phương diện học thức. Sự tôn sùng
đạo Phật của các vua đời Lý cũng có tính cách tâm linh và trí thức hơn. Họ đều
có học Phật và thường mời các thiền sư vào hoàng cung để đàm luận giáo lý. Vì
thế thiền học đời Lý đã thực sự phát triển với các bậc cao tăng thạc đức như:
Khánh Hỷ, Viên Thông, Viên Chiếu, Thường Chiếu, Bảo Giác... Các vị này đã đóng
góp vào kho tàng văn học Việt Nam một số thi ca, trước tác, bi minh rất đáng
kể.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Thiền Sư
VẠN HẠNH
(? - 1018)-
(Đời thứ
12, Dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ
Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông
minh khác thường, thông suốt Tam học và nghiên cứu Bách luận, mà vẫn xem thường
công danh phú quí.
Năm 21 tuổi
Sư xuất gia, cùng Thiền sư Định Huệ, thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục
Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt.
Sau khi
Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng trì
tam-ma-địa” lấy đó làm sự nghiệp.
Bấy giờ Sư
có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính
Sư.
Niên hiệu
Thiên Phúc năm thứ nhất (980), tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh
nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lãng Sơn, vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi:
- Quân ta
thắng bại thế nào?
Sư đáp:
- Trong ba,
bảy ngày thì giặc ắt lui.
Quả đúng
như lời Sư đoán.
Ngày vua Lý
Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và
bác vua Lý hay: “Thiên tử đã băng hà, Lý Thân Vệ đã khuất phục trong thành nội,
túc trực trong vài ngày Thân Vệ ắt được thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư
ra yết thị rằng:
Tật Lê chìm
biển Bắc
Cây Lý che
trời Nam
Bốn phương
binh đao dứt
Tám hướng
thảy bình an
(Tật Lê
trầm bắc thủy
Lý tử thọ
nam thiên
Tứ phương
qua can tịnh
Bát biểu hạ bình an.)
Niên hiệu
Thuận Thiên thứ chín (1018) ngày rằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi chúng
nói kệ:
Thân như
bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân
tươi, thu đượm hồng,
Mặc cuộc
thạnh suy không sợ hãi,
Thạnh suy
như cỏ hạt sương đông.
(Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc
xuân vinh thu hựu khô,
Nhậm vận
thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy
như lộ thảo đầu phô.)
Nói xong,
Sư lại bảo chúng:
“Các ngươi
cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng
giây lát, Sư tịch.
Vua Lý Thái
Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường. Về sau vua Lý
Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng:
Vạn Hạnh
thông ba mé (Ba mé: quá khứ, hiện tại, vị lai.)
Thật hợp
lời sấm xưa.
Quê nhà tên
Cổ Pháp
Dựng gậy
vững kinh vua.
(Vạn Hạnh dung tam tế,
Chơn phù cổ sấm cơ (ky)
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ.)
(Thiền Tông VN)
Tuy chỉ là một Thiền sư, nhưng lại là một Thiền sư dung thông tam giới, đem sở học sở chứng để xây dựng đất nước; đứng ngoài danh lợi thế sự mà vẫn tạo được lợi danh cho dân tộc một thời. Có công un đúc một vị vua nhân hậu lãnh đạo dân tộc, ổn định giặc loạn khắp nơi. Tu mà không rời bổn phận với đất nước; tham chính mà không dính mắc lợi danh; tâm linh là ngọn đuốc dẫn dắt mọi hành hoạt; Đạo Đời viên dung. Sách sử ngàn đời vẫn không mai một.
CON NGƯỜI
ĐỘC DỊ CỦA NGÀN NĂM TRƯỚC VÀ SAU
1. CON NGƯỜI VẠN HẠNH VÀ CÔNG CUỘC
CÁCH MẠNG
Cuộc cách mạng mà Vạn Hạnh thực hiện
là xoay chuyển vận nước và Dân tộc bước vào thời huy hoàng, và tạo dựng nền
Triết lý thực dụng cho giống nòi.
2. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ
Khả năng nầy Vạn Hạnh còn sử dụng
tuyệt diệu hơn trong việc tạo dựng nên một Lý Công Uẩn, sau nầy trở thành một
vị minh quân, một vĩ nhân của Dân Tộc.
Trước những biến động nguy ngập của
thời đại, sự xuất hiện của Vạn Hạnh như một vị cứu tinh vĩ đại cho Dân Tộc, Vạn
Hạnh là linh hồn của công cuộc cách mạng đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ngài đã đào
tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ Pháp, để sau nầy
trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả cho Dân Tộc. Nhờ sự giáo
dục tài tình của Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã huân tập được tinh thần Từ Bi, Trí
Tuệ trong Phật Giáo, đặt sự tồn tại của Dân Tộc lên trên, xây dựng một xã hội
nhân bản, hưng thịnh, an lạc. Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là
Triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật
giáo”.
3. TƯ TƯỞNG THIỀN
Sự có mặt của Vạn Hạnh là làm sống
lại sinh mệnh của dân tộc, và tiếp nối để đạt được thành công, những hoài bão
của lớp Thiền Sư trước chưa thực hiện được.
Bài kệ của Vạn Hạnh để lại:
Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thạnh suy vô bố uy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương sa đầu cành.
Nhà Lý trải qua 9 đời vua
trị vì 216 năm (1009-1225)
Thái Tổ • Thái Tông • Thánh Tông • Nhân Tông • Thần Tông • Anh Tông • Cao Tông • Lý Thẩm • Huệ Tông • Nguyên Vương • Chiêu Hoàng (nữ hoàng)
Quốc Sư VIÊN THÔNG
(1080 - 1151)- (Đời thứ 18, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư tục danh Nguyễn Nguyên Ức, quê làng Cổ Hiền sau dời về phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long, lập nghiệp luôn tại đây. Sư tư chất thông minh, học hiểu đến chỗ tinh diệu, xuất gia lúc còn nhỏ. Thọ học với Thiền sư Viên Học ở chùa An Quốc, huyện Cổ Hiền, Sư được thầy truyền tâm ấn.
Năm thứ sáu niên hiệu Hội Phong (1097), Sư đậu thủ khoa kỳ thi Tam giáo, sung chức Đại Văn. Đến năm thứ tám niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa (1108) Sư lại đứng đầu kỳ tuyển khoa hoằng tài để bổ khuyết Tăng Đạo. Nhà vua quá quí kính muốn đem chính sự giao phó cho Sư, Sư cố từ chối chẳng dám nhận. Vua bèn tiến chức Nội Cung Phụng Truyền Giảng Pháp Sư. Bấy giờ, Sư tùy cơ giảng giải giáo lư, khiến người giác ngộ, phá ngu giải hoặc không còn dư thừa. Những người thụ giáo nơi Sư đều nổi tiếng sau nầy.
Năm thứ ba niên hiệu Hội
Tường Đại Khánh (1112), sau khi trùng hưng ngôi chùa Diên Thọ, vua sắc Sư làm
bài văn bia. Vua mến phục tài, phong Sư lên chức Tả Nhai Tăng Lục.
Năm thứ ba niên hiệu Thiên
Thuận (1130), vua Lý Thần Tông triệu Sư vào cung để hỏi việc trị loạn, hưng
vong của đất nước. Sư đáp:
- Thiên hạ ví như món đồ
dùng, đặt vào chỗ yên thì yên, đặt vào chỗ nguy thì nguy, chỉ ở đức vua thực
hành khác nhau đó thôi. Đức hiếu sinh của vua nhuần thấm đến nhân dân thì nhân
dân yêu vua như cha mẹ, tôn vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức đặt thiên hạ
vào chỗ yên vậy.
Sư lại tiếp:
- Việc trị loạn còn ở các quan, được lòng người thì trị an, mất lòng người thì loạn lạc. Tôi trải xem các đế vương đời trước, chưa từng chẳng do dùng quân tử mà được hưng thạnh, vì dùng tiểu nhân mà bị nguy vong. Xét lý do như thế, không phải tại ngay một sớm một chiều, mà nguyên do của nó phát từ từ đã lâu lắm vậy.
Trời đất không thể làm nóng
lạnh ngay, ắt phải dần dần từ xuân sang thu; nhân quân không thể làm trị loạn
ngay, ắt phải dần dần từ thiện ác. Các thánh vương đời xưa biết thế, nên bắt
chước trời tu đức sửa mình, bắt chước đất chăm tu đức để an dân. Sửa mình là
cẩn thận bên trong, run sợ như dẫm đi trên lớp băng mỏng. Yêu dân là kính cẩn
công chúng, nơm nớp như cầm roi nắm cương ngựa. Được như thế thì đâu mà chẳng
hưng; nếu trái lại thì đâu mà chẳng vong. Lý do hưng vong từ từ như thế.
Năm thứ năm niên hiệu Thiên Chương Bảo Tự (1137) vua sắp băng, Sư có dự vào hàng Cố mệnh thảo tờ di chiếu. Vua phó thác mọi việc cho Sư.
Năm thứ nhất niên hiệu Thiệu
Minh (1138), vua Lý Anh Tông lên ngôi, Thái Hậu xét thấy Sư có công lớn nên rất
trọng hậu.
Sau, Sư về làng Cổ Hiền tỉnh
Năm thứ tư niên hiệu Đại Định (1143) nhà vua vinh thăng Sư chức Tả Hữu Nhai Tăng Thống, Nội Cung Phụng Tri Giáo Môn Công Sự, Truyền Giảng Tam Tạng Văn Chương, Ứng Chế Hộ Quốc Quốc Sư và ban tử y.
Ngày 21 tháng 4 năm Tân Mùi, niên hiệu Đại Định (1151), Sư họp chúng từ biệt, không bệnh mà tịch, thọ 72 tuổi.
Tác phẩm của Sư:
1. Chư Phật Tích Duyên Sự, 30
quyển.
2. Hồng Chung Văn Bi Ký.
3. Tăng Gia Tạp Lục, hơn 50
quyển.
4. Viên Thông Tập, hơn một ngàn bài thơ.
Thiền Sư KHÁNH HỶ
(1066 - 1142)- (Đời thứ 14,
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao,
Long Biên, vốn hạt giống tịnh hạnh. Thuở nhỏ, Sư đã không ăn thịt cá. Lớn lên
theo thọ học với Thiền sư Bổn Tịch ở chùa Chúc Thánh.
Khoảng niên hiệu Thiên Chương
Bảo Tự (1133-1138), vua Lý Thần Tông mời Sư vào kinh. Sư ứng đối xứng hợp ý
chỉ, vua bái phong chức Tăng Lục, lại thăng chức Tăng Thống.
Niên hiệu Đại Định năm thứ ba
(1142) nhằm năm Nhâm Tuất, ngày 27 tháng giêng, Sư thị hiện có chút bệnh rồi
tịch, thọ 76 tuổi.
Sư có sáng tác “Ngộ Đạo Ca
Thi Tập”, được lưu hành ở đời.
Theo Sử ký ghi Sư tịch vào năm Thiên Chương Bảo Tự thứ ba (1135).
Thiền Sư ĐA BẢO
(Đời thứ 5, dòng Vô Ngôn
Thông)
Chẳng rõ Sư người ở đâu và họ
gì. Chỉ biết, khi Khuông Việt đại sư mở trường giáo hóa ở chùa Khai Quốc, Sư
đến tham học. Được Đại sư khen là bậc gặp cơ lãnh ngộ, xử sự rất đặc cách,
riêng cho vào thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một
mình một bình bát tiêu dao ngoại vật.
Lúc Lý Thái Tổ còn nhỏ, Sư
trông thấy dung nghi dị thường, bèn bảo: “Đứa bé này cốt tướng phi thường, sau
này ắt làm chủ nước
Thái Tổ nghe nói thất kinh
thưa: “Nay Thánh thượng anh minh còn tại vị, chốn hải nội đều trị yên, cớ sao
Thầy lại nói lời phải tội tru di này?”
Sư bảo: “Mệnh trời đã định, người dù muốn tránh cũng chẳng được nào.”
Đến khi Thái Tổ lên ngôi,
thường thỉnh Sư vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền và ân lễ Sư rất thâm hậu. Vua
xuống chiếu trùng tu ngôi chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng là nơi Sư trụ trì.
Sau không rõ Sư tịch ở đâu và
lúc nào.
(Thiền Tông VN)
NHÀ TRẦN
Mở đầu triều đại nhà Trần là Trần Thái
Tông.(1225-1258), húy là Trần
Cảnh, con của Trần Thừa, cũng là quan viên của triều Lý; chồng của bà Lý chiêu
Hoàng; do Trần Thủ Độ mưu tính sắp đặt, được Lý chiêu Hoàng nhường ngôi, Trần
Thái Tông khai sơn triều đại nhà Trần từ đó, và Lý Chiêu Hoàng là triều đại nhà
Lý cuối cùng.
Sau khi Trần Thừa mất, Trần Thủ Độ trở thành nhiếp chính cho
Thái Tông đến khi ông trưởng thành mà không hề có ý cướp ngôi dù quyền lực đang
trong tay mình. Chính vì vậy mà được nhà vua sủng ái vì đã giúp vua lấy được
lòng thiên hạ.
Do lấn quyền hoàng cung, Trần Thủ Độ đã phế Chiêu Hoàng xuống
làm công chúa do không có con trai nối dõi tông đường, và ép Thái Tông lấy chị
dâu đang có mang ba tháng, làm hoàng hậu; anh của Thái Tông và cũng là chồng của
Thuận Thiên phu nhân bất bình, khởi binh dấy loạn. Thái Tông cũng phiền muộn,
khó xử, tìm lên núi Yên Tử xuất gia, nhưng triều đình cùng Trần Thủ Độ đích
thân tìm đến làm mất sự thanh tịnh chốn thiền môn, nên sư Phù Vân khuyên Thái
Tông nên lấy ý dân làm gốc, là vua không tự làm theo ý mình.
Ảnh hưởng Phật giáo sâu đậm, vừa lên ngôi, Ngài đã ra sức xây dựng
chùa miếu, tạo lập pháp khí, hộ trì Tam Bảo hết lòng. Chẳng những thế, thể hiện
việc am tường nội điển và hành trì, Ngài trước tác các bộ sách: "Thiền tôn chỉ nam, Khóa Hư lục, lục thời sám
hối khoa nghi, Trần Thái Tông ngự tập";
ngoài ra ông còn đề tựa kinh Kim Cang, một số bài luận về tọa thiền niệm Phật
và khuyên răn tửu sắc.
Theo GS. Trần Văn Giáp thì ông còn viết: Quốc triều thông chế, Kiến
trung thường lễ.
Đối với xã tắc, Trần Thái Tông (Trần Cảnh) có nhiều đóng góp khiến sử
sách phải ghi nhận là một vị “Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên
có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực là to
lớn vậy”
(Đại Việt sử ký toàn thư)
Ông từng đánh
thắng quân Mông và bắt nhốt các nhà ngoại giao Mông Cổ.
Ông ở ngôi được 32 năm, nhường ngôi cho thái tử Trần Hoàng, tức Trần Thánh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng được 19 năm; Tuy ở chốn Thiền lâm, ông vẫn quan tâm hướng dẫn vua Trần Thánh Tông về đạo đức, vương nghiệp và chính trị.
TRẦN THÁNH TÔNG:
Trần Thánh Tông (1240 – 1290) là vị Hoàng đế
thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần Thái Tông và trước vua con Trần Nhân
Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 (sau
khi Thượng hoàng Thái Tông mất. Ông là một vị Hoàng đế tài năng, có công rất
lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt
thái bình và quân Nguyên-Mông không sang xâm lược nữa. Không những đẩy mạnh
chính sách phát triển kinh tế và giáo dục, ông đã thực hiện chính sách đối
ngoại khôn khéo, nhưng cương quyết, đề cao quyền lợi của Đại Việt chứ quyết
không để cho người Nguyên sang thôn tính. Trong thời gian làm Thái thượng
hoàng, ông đã cùng với vua con Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng
trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông.
Ông là vị Hoàng đế có lòng thương dân và thân
thiết với anh em trong Hoàng gia.
(Bách khoa toàn thư
mở Wikipedia)
Ông là vị vua thân thiện, hòa đồng với
mọi người, ngoại trừ lúc lâm triều mới phân ngôi thứ, ông nói:
"Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em
cùng hưởng phú quý chung".
Ông cũng quan tâm tới giáo dục, quốc phòng và đời sống
người dân, vì thế trong triều ra đến xã hội, đều an hòa, giặc không dám dòm
ngó. Về quốc phòng, ông cũng rèn luyện tập trận, đúc súng đóng thuyền. Vua lệnh
cho Lê Văn Hưu soạn bộ quốc sử từ thời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30
quyển.
Nhà vua quan hệ ngoại giáo khá mềm mỏng, khôn khéo cho
dù Nam Tống đang suy vi, mãi đến khi Nam Tống bị Nguyên Mông thôn tính, một số
quan lại xin tỵ nạn, vua trọng dụng, ban chức tước phẩm trật mà vẫn cho người
theo dõi quản lý. Quân Nguyên Mông dùng ngoại giao để khuất phục vua Thánh Tông
không được, bèn dấy binh ứng chiến, nên đất nước một lần nữa đứng trước nguy cơ
bị xâm lược.
Năm 1278, Thánh Tông nhường ngôi cho con là Trần Nhân
Tông, lên làm Thái thượng hoàng, tuy ẩn tu, nhưng ngài vẫn quan tâm đến an nguy
của đất nước. Năm 1284 chiến tranh xẩy ra giữa Đại Việt và Nguyên Mông, vua
Nhân Tông và thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông được Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn hỗ trợ đã đánh dẹp hai lần quân Nguyên Mông. Sau khi đất nước vắng bóng
ngoại xâm, Trần Thánh Tông lui về ẩn cư, sáng tác thơ văn; tác phẩm lưu truyền
là: "Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực". Và:
* Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau)
* Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà)
* Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông)
* Phóng ngưu (Thả trâu)
* Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)
* Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông)
Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài).
Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông. “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông:
Thánh Tông nối nghiệp Thái
Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân
Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an.
Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.
Ngô Sĩ Liên
Thánh Tông là vị hoàng đế hiền tài; đối với anh em họ hàng thân mật, không phân biệt chúa tôi, chỉ kể tình ruột thịt đối với dân trong nước mở mang kinh tế và việc học hành… Ông lại chỉnh đốn võ bị, chống ngoại xâm, biết ngoại giao mềm mỏng mà bảo vệ quyền lợi của đất nước, dùng kế hoãn binh trong nhiều năm. Khi chiến tranh nổ ra, ông cùng quân dân đồng cam cộng khổ để đi đến thắng lợi, có thể coi là vua tài đức toàn vẹn. (Bách khoa toàn thư)
TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308)
(Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử)
Ngài tên huý là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở địa vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ.
Khi còn làm Thái tử Ngài đã tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tuỷ và kính lễ Thượng Sĩ làm thầy. Đến khi làm vua Ngài họp các thiền sư để bàn đạo lý.
Năm 21 tuổi Ngài lên ngôi hoàng đế (1279). Khi giặc
Nguyên sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình
đoàn kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn
trọn vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi
vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão
trong cả nước ở Diên Hồng để bàn kế, tỏ quyết tâm chống giặc.
Đến tháng 10 năm Kỷ Hợi 1299, Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu đà (khổ hạnh), lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng.
Vua Trần Nhân Tông viết trong bài phú nổi tiếng
"Cư Trần Lạc Đạo":
Đến năm 1304 Ngài dạo đi các nơi khuyên dân dẹp bỏ
những miếu thờ thần không chánh đáng.
Đến ngày mùng một tháng mười một, trước khi viên tịch
Ngài nói kệ:
Nhất thiết pháp bất
sanh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi liễu dã.
Dịch:
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi ấy vậy.
Ngài còn lưu lại những tác phẩm:
1. Thiền Lâm Thiết Chuỷ Ngữ Lục
2. Đại Hương Hải Ấn thi tập
3. Tăng già toái sự
4. Thạch Thất Mị ngữ (do Pháp Loa soạn lại lời của
Ngài)
"Cư
trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan
hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm
mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn
thiền."
Dịch:
"Ở đời vui đạo hãy tùy
duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm
kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi
thiền."
Nào có đến đi ấy vậy.