So sánh Tiểu thừa và Đại thừa
Các thuật ngữ Tiểu thừa (Hinayana, Cỗ Xe Nhỏ Hơn hay Khiêm Nhường) và Đại thừa (Cỗ Xe Lớn Hơn hay Bao La) bắt nguồn từ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita, The Perfection of Wisdom Sutras).
;
Các thuật ngữ Tiểu thừa (Hinayana, Cỗ Xe Nhỏ Hơn hay Khiêm Nhường) và Đại thừa (Cỗ Xe Lớn Hơn hay Bao La) bắt nguồn từ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita, The Perfection of Wisdom Sutras).
Giữ giới và hồi hướng cho chư thần, chư thiên để ngày đêm bảo hộ, gia trì để hành giả được an lành yên ổn mà tu tập.
Nói chung tình thương yêu chúng sinh thể hiện qua bốn thể dạng vô biên của tâm thức trên đây sẽ tạo ra một bầu không gian rộng lớn bao trùm và bàng bạc trong Phật giáo, và tỏa rộng bên trong bầu không gian đó là Trí tuệ.
Có thể hiểu hành giả chứng được tuệ giải thoát là người đã thành thục pháp hành thuần quán về tất cả pháp đều vô thường, khổ và vô ngã, và từ đó nhàm chán và ly tham tất cả pháp, đạt được cứu cánh giải thoát, an ổn mọi khổ ách
Đức Phật là một con người, đã giảng dạy cho chúng ta những điều chúng ta có thể làm được (giống như ngài), và Ngài đã dạy chúng ta những con đường nào cần phải đi, hoặc là những pháp môn nào để tu tập mà chúng ta có thể đi theo Ngài, (nếu chúng ta mu
Đức Phật ra đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp độ sinh, Ngài để lại cho thế gian một kho tàng giáo pháp đồ sộ quý báu, mang lại hạnh phúc, an lạc, giải thoát, niết bàn cho nhân loại. Đức Phật chỉ ra nhiều con đường đi đ
Thực tập thương yêu theo lời Bụt dạy rất rõ ràng. Đó là sự thực tập tâm vô phân biệt (xả) dựa trên tuệ giác vô ngã.
Thở vào thì ta biết quay về, nắm giữ và thủ hộ tâm ý của mình. Thở ra, ta biết phải thực tập Từ Quán: Từ Quán không buông lơi. Chúng ta nên mô phỏng theo bài kệ trên đặt thêm những bài khác về các điểm bất lợi tiếp theo để thực tập.
Người tu Phật thấy kẻ khác thành đạt, mình sanh tâm hoan hỷ chúc mừng, cho dù đó là kẻ thù thì thù cũng sẽ thành bạn vì không còn đối thủ tỵ hiềm. TÂM HỶ giúp cho cuộc sống không bị đau khổ và không có chướng ngại từ ngoài bởi sự đố kỵ.
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng. Tứ vô lượng tâm là Bốn tâm vô lượng bao gồm: Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm và Xả vô lượng tâm.
Chúng ta không ngạc nhiên, khi Đạo Phật đã quan tâm đến Trí Tuệ đi liền sau Từ Bi! Từ Bi mà không có Trí Tuệ, dễ đi lạc vào đường tà, chẳng lợi gì cho Chánh pháp, mà còn làm suy yếu Chánh pháp nữa!
Tứ vô lượng tâm tức là Bốn tâm vô lượng, bốn tâm vượt ra khỏi giới hạn của ý thức hữu ngã. Tâm đó là Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỷ và Tâm Xả.
Bình thường chúng ta nghe nói đến bốn tâm vô lượng là từ, bi, hỷ, xả là những đức tính tốt mà người tu hành cần phải trau dồi phát triển.