;
Theo thư tịch cổ, chùa Đại Giác được dựng từ năm 1412. Ban đầu chỉ là một cái am nhỏ lợp tranh thờ Phật, về sau khi cư dân dần dần đông đúc mới xây dựng thành một ngôi chùa lớn (năm 1665) và được xem là một trong những ngôi chùa cổ nhất miền Nam.
Tương truyền, thời chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, ông đã cùng bầu đoàn thê tử đến đất Đồng Nai và nương náu ở chùa này. Lúc ấy, người con gái thứ ba của chúa tên là Ngọc Anh, tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã tỏ ra uyên thâm Phật học, thích ăn chay trường và tụng kinh niệm Phật... Khi đoàn người tiếp tục bôn tẩu, Ngọc Anh đã xin được ở lại chùa Đại Giác, nương mình vào cửa Phật vì không muốn bị cuốn vào cuộc binh đao, tranh giành quyền lực. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh dẹp được nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Sau khi yên vị và vỗ an dân chúng, vua xuống chiếu triệu hồi công chúa Ngọc Anh về kinh đô Phú Xuân. Không thể cãi mệnh vua cha, công chúa từ giã ngôi chùa thân thương mà lòng còn luyến tiếc cuộc sống thanh bần nơi cửa Phật. Về đến Huế, công chúa nguyện sẽ không lấy chồng mà vẫn ăn chay niệm Phật, vui cùng câu kinh tiếng kệ nơi phủ riêng của mình để cầu cho quốc thái dân an...
Lúc ấy, ở phương Nam nổi lên một vị thiền sư mà tên tuổi trỗi vượt ở sự đạo hạnh, thông kim bác cổ và khả năng thuyết giảng về Phật pháp đặc biệt xuất chúng. Đó là thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành. Không ai biết thiền sư sinh năm bao nhiêu, nhưng ông được mô tả là người có vóc dáng cao lớn, khuôn mặt phúc hậu, giọng nói rất truyền cảm... Nhờ những khả năng xuất sắc ấy mà ông là vị sư đầu tiên của miền Nam được vua Gia Long phong là Quốc sư.
Khi vua Minh Mạng nối ngôi vua cha, ông đã cho vời thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành về kinh đô để thuyết pháp cho hoàng tộc và triều đình. Tuy nhiên, điều ít ai ngờ là ngay khi gặp và nghe thiền sư giảng giải, công chúa Ngọc Anh đã đem lòng yêu thương - một cách say đắm và mãnh liệt. Dù biết là không nên, không phải nhưng vì quá thương mến, công chúa đã đề nghị thiền sư phá giới để sánh duyên với mình. Liễu Đạt Thiệt Thành hết sức khó xử, thiền sư đã ân cần khuyên giải, phân tích. Ai ngờ, công chúa đã không tỉnh ngộ mà còn nhờ vua Minh Mạng tác hợp cho mình. Giữa lúc bối rối, khó xử đó thì sư phụ của thiền sư là hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc, trụ trì chùa Từ Ân (Gia Định) vừa viên tịch. Nhân cơ hội này, thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành đã xin trở vào Gia Định chịu tang thầy và chấp chánh chùa Từ Ân.
Đại Giác cổ tự - Ảnh: H.Đ.N
Kết thúc cuộc tình
Từ khi thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành vào Gia Định thì ở kinh thành Huế công chúa Ngọc Anh ngày đêm thương nhớ đến nỗi sức khỏe suy sụp. Khi vua thân hành đến thăm thì công chúa nài nỉ vua cho mình vào chùa Từ Ân cúng dường, lễ Phật. Cảm thương cho hoàn cảnh của người chị ruột, vua Minh Mạng cho phép công chúa và đoàn tùy tùng lên đường. Họ mang theo nhiều lễ vật xuôi Nam...
Hay tin công chúa vào Nam, thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành hốt hoảng, người sắp đặt, căn dặn các đệ tử chu đáo rồi trẩy về đất Đồng Nai, vào chùa Đại Giác (nơi công chúa từng quy y), quyết định nhập thất trong 2 năm. Khi công chúa đến chùa Từ Ân, nàng vô cùng hụt hẫng vì không được diện kiến người mình yêu thương. Hỏi thăm chúng tăng, ai cũng trả lời là không biết thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành đi đâu. Mệt mỏi vì cuộc hành trình vạn dặm cộng thêm nỗi thất vọng ê chề, nỗi tương tư u uẩn, công chúa lại ngã bệnh, lần này bệnh càng ngày càng trầm trọng. Lo sợ công chúa có mệnh hệ gì thì nhà chùa cũng bị trách nhiệm, chúng tăng ở chùa Từ Ân đành phải nói rõ sự thật. Đang nằm liệt giường, nghe biết thiền sư đang nhập thất ở chùa Đại Giác, công chúa bật dậy ngay, nàng thông báo cho quan Tổng trấn Gia Định (lúc đó là Lê Văn Duyệt - NV) là mình sẽ lên chùa Đại Giác cúng dường. Quan tổng trấn bèn cử một đoàn hộ tống.
Sau khi cúng dường, công chúa đã nhờ người dẫn đến tịnh thất. Cửa đóng im ỉm. Công chúa lên tiếng xin được gặp mặt, nhưng thiền sư vẫn không lên tiếng. Đau khổ tột cùng, công chúa quỳ trước tịnh thất, không ăn không uống quyết gặp mặt bằng được thiền sư mới thôi, nhưng cửa tịnh thất vẫn không mở. Cuối cùng, công chúa dập đầu trước tịnh thất mà nói: “Nếu hòa thượng không tiện ra cho tiện thiếp gặp, thì xin cho tiện thiếp được thấy bàn tay của hòa thượng rồi tiện thiếp sẽ hân hoan ra về”. Cảm động trước tấm lòng của công chúa, thiền sư đã đưa bàn tay qua ô cửa nhỏ ra bên ngoài. Công chúa nắm lấy bàn tay đó, vừa khóc vừa hôn một cách say đắm, nước mắt ướt đẫm bàn tay của vị thiền sư...
Nửa đêm hôm đó, khi cả chùa Đại Giác đang say ngủ thì tịnh thất phát hỏa. Lúc mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi, nhục thân của thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành cũng đã cháy đen. Điều kỳ lạ là ở bức vách chánh điện vẫn còn bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen: “THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần/THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần/LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn/ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần” (những chữ in đầu câu ghép thành tên thiền sư, là do người sau muốn thể hiện bằng chữ quốc ngữ như thế - NV).
Công chúa đã ở lại chờ lo xong hậu sự cho thiền sư. Ba ngày sau đó, nàng uống thuốc độc quyên sinh tại hậu viên chùa Đại Giác, kết thúc một mối tình đơn phương và ngang trái.
Chùa Đại Giác nay thuộc ấp Nhị Bình, xã Hiệp Hòa, TP.Biên Hòa (Đồng Nai).
Theo Hà Đình Nguyên - TNO