;
I. Giới bổn Bồ tát tại gia
Giới: Tiếng Phạn Sila, theo nghĩa, dịch là giới. Giới [theo nghĩa hẹp] là những điều cấm chế, có công năng làm cho hành giả đề phòng, chế ngự thân, tâm, không cho phạm vào lỗi lầm (Hán: phòng phi chỉ ác). Giới là tiêu chuẩn quy định đệ tử Phật hành động thế nào là đúng pháp, hành động như thế nào là không đúng pháp.
Giới còn có nghĩa là "mát mẽ (Hán: thanh lương)". Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) giống như cơn lửa phiền não đốt cháy hành giả, còn giới thì có thể dập tắt cơn lửa phiền não, làm cho hành giả mát mẽ, cho nên gọi là "thanh lương".
Giới là bậc thang cho tất cả pháp lành, trong đó có bốn giai tầng là ngũ giới, bát giới, thập giới, và cụ túc giới. Phật tử nếu muốn từ địa vị phàm phu vượt lên thánh vị, phải theo thứ tự này mà tiến bước. (Ðây là nói theo Tiểu thừa, còn theo Ðại thừa, giới pháp Bồ tát bao quát cả bốn giai tầng này.)
Giới có công năng giúp cho hành giả ngăn chận pháp ác, đoạn trừ tất cả tập khí ác, diệt tận phiền não loạn tưởng, chứng đắc Niết bàn. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: "Ðược gọi là giới, bởi vì nó có thể giúp hành giả diệt trừ các việc ác. Giới có thể giúp hành giả viên thành đạo quả, làm cho mọi người hoan hỷ. Giới, gọi là anh lạc trang nghiêm, vì làm cho hành giả hiện tướng trang nghiêm. Giới cấm của chư Phật, như bình Cát tường, tất cả nguyện cầu đều được toại ý; tất cả đạo phẩm đều do giới mà thành tựu. Như vậy, này các tỳ kheo! Kẻ nào tuân hành giới cấm, thì kẻ đó sẽ được đại quả báo, các điều lành sẽ đến. Kẻ đó được vị cam lộ, đến quả vị "vô vi", sẽ được thần thông, diệt trừ loạn tưởng, chứng đắc "sa môn quả", sẽ được Niết bàn."
Bồ tát: Bồ tát là gọi tắt của "Bồ đề tát đỏa", là dịch âm từ chữ Phạn Bodhisattva. "Bồ đề" dịch là giác, còn "tát đỏa" dịch là hữu tình, hợp lại gọi là "giác hữu tình", có nghĩa là bất cứ đệ tử nào của Phật, hễ phát tâm "trên cầu Phật đạo, dưới độ hữu tình", thì kẻ đó được gọi là Bồ tát.
Tại gia: Ðệ tử của Phật được chia làm hai hạng xuất gia và tại gia. Tại gia gồm hai chúng là ưu bà tắc và ưu bà di. Ưu bà tắc, là dịch âm từ chữ Phạn upasika, theo nghĩa, được dịch là cận sự nam, hoặc cận thiện nam, hoặc cận túc nam, v.v... Thế nhưng, chỉ có nghĩa "cận sự nam" là chính xác nhất. "Cận", có nghĩa là thân cận (gần gũi), "sự" có nghĩa là phụng sự, tức là thân cận phụng sự Tam bảo. Người nam gọi là ưu bà tắc, người nữ gọi là ưu bà di.
II. Sáu giới trọng:
(1) Giới giết hại:
Chư phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến, cũng không được giết hại. Nếu phạm giới giết hại, hoặc bảo người giết, hoặc tự mình giết, sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ nhất.
Dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến, cũng không được giết hại: Ðối với cảm quan của loài người, cho rằng trùng, kiến là những loài vật bé nhỏ, cho nên coi thường sinh mệnh của chúng. Khi giết hại những loài trùng kiến này, không những không cảm thấy xúc động, mà nhiều khi lại còn cảm thấy "thích thú". Thế nhưng, đối với Phật pháp, tất cả sinh mệnh của chúng sanh đều bình đẳng. Sinh mệnh của loài trùng kiến cũng là sinh mệnh của chính chúng ta. Nếu chúng ta biết yêu tiếc thân mệnh mình, thì loài trùng kiến cũng biết yêu tiếc thân mệnh của chúng. Do đó, chúng ta không có quyền tước đoạt sinh mệnh của bất cứ loài vật nào.
Vì lý do này, các ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, dù cho hy sinh thân mạng của chính mình, cũng không được sát sinh; do đó mới nói: "Dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến cũng không được sát hại". Ðến như giết người, thì tội lại càng nặng hơn. Ngoài việc phá giới, mất giới thể và chiêu cảm ác báo trong tương lai, lại còn không thể sám hối (Theo Ðại thừa, tuy có thể sám hối, song sự sám hối cũng không phải dễ dàng, phải thấy được điềm lành, như thấy Phật đến xoa đầu, hoặc thấy hương thấy hoa, v.v..., thì tội phá giới mới tiêu diệt, thế nhưng, ác báo trong tương lai vẫn không bị trừ diệt).
Ðối với những loài vật nhỏ trong các dạng thái: như sinh ra từ trứng, sanh nơi ẩm thấp, sinh ra bằng sự biến hóa, v.v..., nếu vô ý sát hại, tuy không phạm giới, song vẫn phải sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng. Còn nếu cố tâm sát hại, thì vẫn là phạm vào điều giới này.
Bảo người giết: (Hán: giáo nhân sát): Có hai loại, (1) sai: là dùng lời nói, cử chỉ, hay dấu hiệu, cho kẻ thuộc hạ ra tay sát hại đối phương, dưới sự hiện diện của mình; (2) khiển: ra lệnh, bằng lời nói hay thư từ, cho thuộc hạ truy lùng đối phương để sát hại.
Tự mình giết: nghĩa là tự mình ra tay sát hại. Có ba loại: (1) hoặc dùng nội sắc: nghĩa là dùng tay, chân, hoặc các bộ phận khác của thân thể mình, xúc chạm trực tiếp vào thân thể của đối phương; (2) hoặc dùng ngoại sắc: nghĩa là dùng dao, gậy, cây, đá, v.v... quăng, ném, phóng vào đối phương; (3) hoặc dùng nội ngoại sắc: nghĩa là tay cầm dao, gậy, cây, đá, v.v... xúc chạm vào đối phương.
Mất giới: tức là mất giới thể. Theo Tiểu thừa, mất giới thể là vĩnh viễn mất hẳn, không thể sám hối. Thế nhưng, theo Ðại thừa, mất giới thể, chỉ có nghĩa là giới thể tạm thời bị mất đi cái công năng "phòng phi chỉ ác (đề phòng lỗi lầm, đình chỉ việc ác)". Giả như, hành giả đem tâm cực kỳ thành khẩn sám hối, theo kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, nếu thấy được điềm lành, như trong mộng thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu, thuyết pháp, hoặc thấy hương, thấy hoa, v.v..., thì tội liền được tiêu diệt, và hành giả có thể thọ giới lại, khôi phục giới thể thanh tịnh của mình.
Noãn pháp: Trong giáo pháp Tiểu thừa, trước tiên cần phải vượt qua bốn giai đoạn, gọi là bốn gia hạnh vị, tức là Noãn pháp, Ðảnh pháp, Nhẫn pháp, và Thế đệ nhất pháp, sau đó mới có thể chứng đắcÕ bốn thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, và A la hán. Muốn biết thêm chi tiết xin xem Phật học từ điển.
Huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm: Theo giáo pháp Tiểu thừa, người tại gia, tối đa, có thể chứng đến thánh quả A na hàm, chỉ có hàng xuất gia mới chứng được thánh quả A la hán.
Phá giới: tức là hủy phạm những giới trọng mà mình đã thọ. Theo thuật ngữ giới luật, gọi là phạm Ba la di. Ðối với bốn giới căn bản, dâm, sát, đạo, vọng, nếu phạm trọng sẽ mất giới thể. Còn hai giới trọng thứ năm và thứ sáu, tuy cũng phạm trọng, song không mất giới thể.
Xú uế: nghĩa là mùi hôi thối, mọi người ngửi đến cảm thấy nhờm gớm. Trong Phật pháp, tất cả điều ác, đều là do sự tham muốn sanh tử sanh ra, đều bị coi là ô uế. Cho nên kẻ phá giới, do vì tâm sanh pháp ác, giống như mùi hôi thối của xác chết, không ai dám ngửi.
Cấu ô: Chữ cấu, có nghĩa là trần cấu. Bởi vì thân thể bài tiết ra những chất bất tịnh, kết thành cấu uế nhơ nhớp. Trong Phật pháp, đem chất cấu nhớp trên thân ví cho vọng tưởng điên đảo. Tâm tính xưa nay vốn thanh tịnh, bởi do vọng tưởng điên đảo (phiền não) làm ô nhiễm, mà trở thành cấu ô (nhơ nhớp).
Chiên đà la: là giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Ðộ, chuyên làm nghề đồ tể. Kẻ Bồ tát tại gia thọ giới, xưa nay vốn đầy đủ tất cả thiện căn, nếu không giữ gìn giới pháp, giống như đem tất cả thiện căn ra giết sạch. Ðiều này giống như bọn đồ tể chiên đà la, dòng dõi thấp hèn.
Bị triền phược: có nghĩa là bị trói buộc, tức là hành giả bị phiền não trói buộc, kết hợp, thành thử bị trói buộc trong sinh tử luân hồi.
Giới giết hại, có năm duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là người, (2) tưởng là người, (3) có tâm sát hại, (4) lập phương tiện, (5) đối phương bị đoạn mệnh.
(Chú ý: Ở đây chỉ đề cập đến trường hợp phạm trọng, mất giới thể, thành thử đối tượng cho sự sát hại là con người, còn như sát hại những sinh vật khác, sẽ phạm tội nhẹ hơn. Trong giáo pháp Ðại thừa, tuy công nhận tất cả chúng sanh đều bình đẳng, song hàng tại gia thọ Bồ tát giới còn đang ở trong giai đoạn "chập chửng" học tập Bồ tát hạnh, không thể phán tội quá nặng, giống như các vị Bồ tát đăng địa được. Giả sử, nếu các Bồ tát thập địa phạm giới sát, thì sẽ phạm trọng mất giới thể, không kể đối tượng là ai! Còn như các vị tại gia sơ cơ, nếu bị phán tội giống như các vị Bồ tát thập địa, e rằng giới luật sẽ trở thành quá khắc khe, không ai có thể hành trì được. Có lý có tình, đây là tinh thần của giới luật.
(2) Giới trộm cắp:
Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, ngay đến một đồng tiền, cũng không được trộm cắp. Nếu phạm giới trộm cắp sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ hai.
Trộm cắp: Ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp là ba hành vi ác. Ý nghĩa của chúng gần giống nhau, nghĩa là thừa dịp kẻ khác không chú ý, hoặc không đề phòng, mà đoạt lấy đồ vật của họ, về làm của riêng của mình. Trong Phật pháp gọi là "không cho mà lấy" (Hán: bất dữ thủ).
Kẻ trộm cắp, đầu tiên là do lòng tham muốn, kế đó bắt đầu dự mưu, tính toán, sau đó thực hành ý đồ của mình, đoạt lấy của cải của kẻ khác đem về làm của riêng, để thỏa lòng tham muốn của mình.
Trộm cắp, không phải là lấy lầm, mà là biết rõ tài vật đó là của người khác, không phải của mình, hơn nữa, tự mình không có món vật tương tự như vậy, đây hoàn toàn là một hành vi "bất chính".
Ngay đến một đồng tiền: Ðây là dùng số lượng nhỏ để ví cho số lượng lớn. Chỉ cần lấy trộm một đồng tiền, cũng đã phạm vào điều giới này, huống chi là lấy trộm một số tiền lớn hơn. Theo giới luật quy định, nếu trộm "năm tiền" sẽ phạm trọng, mất giới thể. Thế nhưng, "năm tiền" là tính theo đơn vị tiền tệ của nước Ma Kiệt Ðà của vua Tần Bà Sa La vào thời Ðức Phật còn tại thế. Hiện nay, "năm tiền" trị giá bao nhiêu, khó mà biết một cách chính xác. Có một số Luật sư Nam truyền, cho rằng "năm tiền" tương đương với khoảng "hai mươi đô la Mỹ" hiện nay. Thế nhưng, theo ý người dịch, chỉ trộm "hai mươi đô la" mà bị mất giới thể, e rằng quy định như thế là quá "nghiêm khắc". Chỉ có cách là khuyên các vị ưu bà tắc, ưu bà di, sau khi thọ giới Bồ tát, đối với điều giới này phải nên rất cẩn thận.
Giới trộm cắp có sáu duyên thành phạm trọng: (1) vật có chủ, (2) biết là vật có chủ, (3) có tâm trộm cắp, (4) vật có giá trị "năm tiền" hay hơn "năm tiền", (5) lập phương tiện, (6) di động vật rời chỗ, dù chỉ là xê xích một li.
(3) Giới đại vọng ngữ:
Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được nói dối: "Tôi đã chứng được pháp quán bất tịnh", hoặc: "Tôi đã chứng được thánh quả A na hàm", vân vân, ... Nếu phạm giới đại vọng ngữ sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ ba.
Nói lời không thực, lừa dối phàm thánh, mê hoặc lòng người, gọi là nói dối. Trong đây phân làm bốn trường hợp: (1) Vọng ngữ: tức là thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, v.v... Trong đây lại chia làm hai loại: (a) đại vọng ngữ, nghĩa là chưa chứng pháp quán bất tịnh, lại nói rằng đã chứng pháp quán bất tịnh, nhẫn đến chưa chứng thánh quả lại nói rằng đã chứng thánh quả; (b) tiểu vọng ngữ: tức là ngoài những lời đại vọng ngữ ra, tất cả những lời vọng ngữ thông thường khác, gọi là tiểu vọng ngữ. (2) Nói lời vô nghĩa (Hán: ỹ ngữ): tức là nói những lời phù phiếm, hoa hòe, nhẫn đến bàn tán những chuyện nhãm nhí, không lợi ích cho mình và người. (3) Nói lời đâm thọc (Hán: lưỡng thiệt): còn gọi là nói lưỡi hai chiều, tức là đến đây nói kia, đến kia nói đây, mục đích gây tạo sự chia rẽ, hiềm khích. (4) Nói lời độc ác (Hán: ác khẩu): tức là nói những lời tục tằn, chửi rủa, trù ẻo, v.v..., làm cho đối phương không thể nhẫn chịu được.
Ðiều giới này là muốn phán tội của sự đại vọng ngữ, nếu như đại vọng ngữ, sẽ phạm trọng, mất giới thể; còn như nói các lời hư vọng khác, sẽ phạm trung tội hoặc tiểu tội, không mất giới thể.
Giới đại vọng ngữ có chín duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là người, (2) mình biết đối phương là người, (3) cảnh giới không thật, (4) tự mình biết cảnh giới không thật, (5) có tâm lừa dối, (6) nói cảnh giới không thật, (7) tự nói mình chứng được cảnh giới đó, (8) lời nói rõ ràng, (9) đối phương hiểu ý mình muốn nói.
(4) Giới tà dâm:
Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được tà dâm. Nếu phạm giới tà dâm sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ tư.
Dâm, được phân làm hai loại là chính dâm và tà dâm. Chính dâm là sự giao phối giữa hai vợ chồng chính thức. Ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, vẫn có thể làm chuyện "chính dâm" này. Thế nhưng, trong sáu ngày "bát quan trai" trong tháng, ngay cả việc "chánh dâm" cũng bị cấm đoán, mà phải hoàn toàn đoạn dục.
Còn tà dâm là sự giao phối với kẻ thứ ba, không phải vợ hay chồng chính thức của mình, không luận kẻ đó là nam, nữ, súc sinh, quỷ thần, phi nhân, hoàng môn (bán nam bán nữ), v.v..., dù là còn sống hoặc đã chết (hành dâm với thây chết). Nếu hành tà dâm, sẽ phạm trọng, mất giới thể.
Nếu gặp kẻ không phải vợ chồng chính thức của mình, cưỡng bức mình làm chuyện tà dâm, dù cho mất thân mệnh cũng không để cho kẻ đó xâm phạm mình. Huống hồ, đã thọ giới Bồ tát, lại càng không thể cưỡng bức kẻ khác làm chuyện tà dâm.
Ngoài ra còn thêm một điều giới liên quan đến sự tà dâm, là điều giới khinh thứ hai mươi (Hành dâm không đúng thời, không đúng chỗ).
Giới tà dâm có hai trường hợp: (1) tự mình tà dâm, (2) bị kẻ khác cưỡng bức tà dâm.
Tự mình tà dâm, có năm duyên thành phạm trọng: (1) không phải người phối ngẫu chính thức của mình, (2) chánh cảnh (người nữ ba chỗ: nữ căn, miệng, và hậu môn; người nam hai chỗ: miệng và hậu môn); (3) khởi tâm dâm dục, (4) lập phương tiện, (5) hợp với chánh cảnh (dù độ sâu chỉ bằng hột mè).
Bị cưỡng bức tà dâm, có năm duyên thành phạm trọng: (1) không phải người phối ngẫu chính thức của mình, (2) chánh cảnh (người nữ ba chỗ: nữ căn, miệng, và hậu môn; người nam hai chỗ: miệng và hậu môn); (3) bị cưỡng bức dâm dục, (4) hợp với chánh cảnh (dù độ sâu chỉ bằng hột mè), (5) cảm thọ khoái lạc.
(5) Giới rao nói tội lỗi của bốn chúng:
Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được rao nói tội lỗi của bốn chúng: tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Nếu phạm giới rao nói tội lỗi của bốn chúng sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ năm.
Rao nói (Hán: tuyên thuyết): có nghĩa là dùng ngôn ngữ, bao hàm lời nói, văn tự, tranh ảnh, v.v..., để truyền bá cho mọi người biết.
Tội: nếu như trong Phật pháp, là chỉ cho sự phá giới, còn như trong thế gian pháp, là chỉ cho sự phạm pháp.
Lỗi: tức là những lỗi lầm tương đối nhẹ khác.
Bốn chúng đệ tử, tuy đã tiếp thọ giới pháp tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, nhưng tất cả đều vẫn còn là phàm phu, vẫn có thể phạm vào lỗi lầm. Trên thế gian, không có ai là kẻ toàn thiện, trừ đức Phật.
Tỳ kheo, tỳ kheo ni, có ba nghĩa: (1) bố ma: khi một người xuất gia thọ giới cụ túc, ma cung liền bị chấn động, đồng thời, ma vương cũng cảm thấy sợ hãi, cho nên gọi là bố ma; (2) khất sĩ: trên thì khất (xin) pháp của chư Phật, dưới thì khất thực (thức ăn) của chúng sanh; (3) phá ác: tỳ kheo, tỳ kheo ni tu tập giới, định, tuệ, phá diệt tất cả các pháp ác như tham, sân, si, v.v..., cho nên gọi là phá ác.
Vì tỳ kheo, tỳ kheo ni có đầy đủ ba nghĩa như trên, cho nên nếu rao nói tội lỗi của họ, cũng tức là phá hoại Tam bảo. Còn ưu bà tắc, ưu bà di, là những người hộ trì Tam bảo, nếu rao nói tội lỗi của họ, sẽ là cho họ thoái thất tâm hộ trì Phật pháp. Vì những lý do này, đã thọ giới Bồ tát, nếu rao nói tội lỗi của bốn chúng, sẽ phạm trọng.
Bốn chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, là bốn cột trụ của tòa nhà Phật pháp. Nếu phá hoại một trong bốn cột trụ đó, thì tòa nhà Phật pháp sẽ bị sụp đổ. Nếu như thấy có người trong bốn chúng phạm tội, hoặc làm lỗi, nên khéo léo khuyến cáo họ một cách kín đáo. Nếu như họ không chịu nghe lời khuyên nhắc, cũng không nên đem tội, lỗi đó ra mà rao nói cho kẻ khác biết. Ngài Liên Trì có nói: "Không thấy lỗi của người xuất gia, đây là liều thuốc hay nhất của hàng cư sĩ." Bởi vậy, cư sĩ tại gia, tuyệt nhiên không nên nói lỗi lầm của người xuất gia.
Sự học của các bậc thánh mới thực là sự học "đến nơi đến chốn". Ðức Khỗng tử nói: "Ba người cùng đi, ắt phải có vị thầy của mình. Thấy điều thiện thì học hỏi, thấy cái không thiện thì nhân đó mà cải đổi chính mình." Các vị Phật tử, nếu thấy người khác có lỗi lầm, nếu như mình đã khuyên nhắc kín đáo mà họ vẫn không nghe, chỉ nên đi tìm vị thiện tri thức khác để học hỏi, tuyệt nhiên không nên rao nói lỗi lầm của họ. Các vị ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, phải nên cẩn thận điều này.
Giới nói lỗi của bốn chúng có năm duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là một trong bốn chúng, (2) biết đối phương là một trong bốn chúng, (3) có tâm rao nói tội lỗi, (4) rao nói tội lỗi, (5) người nghe hiểu ý mình muốn nói.
(6) Giới bán rượu:
Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được bán rượu. Nếu phạm giới bán rượu sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây gọi là giới trọng thứ sáu.
Ðiều giới này tương tự với điều giới trọng thứ sáu, Không được bán rượu, của kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới.
Rượu, là một chất độc là cho người uống mê say, đánh mất nhân tính. Uống rượu không những nguy hại đến sức khỏe, mà còn, nếu uống quá lượng, sẽ làm cho người uống trở thành nghiện ngập, lại còn có thể làm cho họ phát cuồng, phát điên. Vì thế bán rượu cho người khác uống, thì cũng gần giống như giết người; hơn nữa, kẻ say rượu lại có thể làm nguy hại đến luân lý xã hội, cùng những việc nguy hiểm đến tính mạng kẻ khác, do đó, ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, nếu còn bán rượu sẽ phạm trọng. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có nói: "Tất cả rượu đều không được bán. Rượu là nhân duyên sinh ra tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí tuệ sáng suốt, mà trái lại đem sự say mê điên đảo đến cho họ. Phật tử này phạm Bồ tát ba la di tội."
Các Bồ tát tại gia, nếu trước đó đã làm nghề bán rượu, thì phải tức khắc đổi sang nghề khác. Tuy có do đây mà bị thất nghiệp, hoặc cuộc sống bị nguy ngập, cũng không trở lại làm nghề bán rượu này. Nếu như người nhà phản đối, thì nên để cho kẻ chưa thọ giới Bồ tát tiếp tục làm, còn vị ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, tuyệt đối không nên dính líu vào công việc làm của họ. Nếu không lại phạm vào tội đồng lõa, hoặc phạm vào điều giới "chỉ dạy cho kẻ khác bán rượu".
Giới bán rượu có năm duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là người, (2) biết đối phương là người, (3) có tâm bán rượu cầu lợi, (4) rượu thật, (5) bán cho đối phương.
III. Hai mươi tám giới khinh:
(1) Giới không cúng dường cha mẹ, sư trưởng:
Chư Phật tử! Ðức Phật đã dạy: Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Cúng dường: có nghĩa là đem vật sở hữu, tùy khả năng của mình, bố thí cho cha mẹ, sư trưởng và các bậc có đức sử dụng; mà trong đó, đặc biệt nên "cúng dường" cha mẹ, sư trưởng. Bởi vì, (1) "thân người khó được", mà cha mẹ lại là kẻ sinh ra thân mệnh mình; (2) "Phật pháp khó nghe", mà sư trưởng lại là kẻ giảng dạy Phật pháp cho mình. Ơn nghĩa của cha mẹ, sư trưởng đối với chúng ta sâu rộng như trời biển, bởi thế chúng ta phải nên cúng dường phụng sự.
Kinh Trang Nghiêm, quyển mười hai, có nói: "Các Bồ tát vì muốn thành tựu lục độ, cho nên trong mỗi địa, đều nhất định phải tu sáu việc: (1) phải tu cúng dường, đây là thành tựu bố thí ba la mật; nếu như không bố thí lâu dài, thì sẽ không thành tựu bố thí độ, ...." Nếu đã là bồ tát thì phải tu lục độ. Cúng dường, tức là bố thí ba la mật, cho nên cúng dường cha mẹ, sư trưởng, tức là để thành tựu, viên mãn "bố thí độ" vậy.
Nếu kẻ nào không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thì đó là kẻ ngỗ nghịch vô đạo. Pháp thế gian còn không dung thứ, huống hồ là trong Phật pháp! Kẻ không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, là kẻ đi ngược lại bổn nguyện của chư Phật, Bồ tát, cho nên, tuy họ nhất tâm niệm Phật, niệm Bồ tát, thì vẫn không thể nào tương ưng với chư Phật, Bồ tát được.
Tội sơ ý: có hai lối giải thích, (1) theo ngài Thái Hư Ðại sư, sơ ý là không chú ý (Anh: unmindful) mà phạm, hành giả có thể sám hối, và không bị mất giới thể, (2) theo lối giải thích thứ hai, sơ ý là sự [tạm thời] quên mất tâm Bồ đề, cùng ý thức về sự lập thệ thọ giới, và ý thức về vai trò Bồ tát của mình (Anh: not being mindful and losing the initial intention in taking the precept.)
Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi (Hán: Bất khởi đọa lạc, bất tịnh hữu tác): Kẻ nào phạm vào những điều giới này, nếu không khởi tâm thành khẩn sám hối, sẽ bị đọa lạc vào ba đường ác, đó là kẻ cấu uế, bất tịnh, tiếp tục tạo nghiệp sinh tử luân hồi (Anh: If one does not have the mind of repentance, one will deteriorate. One is impure, and will continue to create defiled karma that leads to transmigration in the cycle of birth and death).
(2) Giới uống rượu:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, ham mê uống rượu, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Ham mê (Hán: đam nhạo): nghĩa là quá phần ham thích, đến độ mê luyến.
Như điều giới trọng thứ sáu, Giới bán rượu, có nói sơ lược, uống rượu làm tổn hại sức khỏe, lại còn làm cho tâm thần mê muội, mất hết nhân tính, nhẫn đến phát cuồng phát điên. Không những không thể tu hành, mà còn lại không thể làm những nghề nghiệp sinh sống chánh thường. Do đó, Bồ tát tại gia không nên uống rượu.
Uống rượu là nghiệp ác, thế nhưng, vì chỉ tự hại mình, thành thử phạm tội tương đối nhẹ, song nếu đưa rượu cho người khác uống, quả báo sẽ nặng hơn. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới nói: "Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo năm trăm đời không tay (nghĩa là đọa vào loài súc sanh)". Còn như bán rượu, tội lại càng nặng hơn nữa, tức là sẽ phạm trọng, và quả báo sẽ ở địa ngục.
(3) Giới không chăm sóc người bệnh:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, gặp người bệnh khổ, sinh khởi ác tâm, bỏ phế không chăm sóc, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Ác tâm: Chữ ác, theo tiếng Hán có ba nghĩa: (1) ác độc, (2) ghét, (3) nhờm gớm. Nói chung, ác tâm có nghĩa là tâm không lành, không từ bi, v.v...
Ðiều giới này và điều giới hai mươi tám (Ði đường gặp người bệnh không chăm sóc) tương đương với điều giới ba mươi hai (Không chăm sóc người bệnh) trong quyển Du Già Bồ Tát Giới. Thế nhưng lời văn của quyển giới bổn Bồ tát tại gia này quá đơn giản, thành thử phải dựa vào quyển Du Già Bồ Tát Giới để giải thích, mới có thể giúp cho người thọ giới Bồ tát tại gia thọ trì đúng pháp.
Ðại ý của điều giới này và điều giới hai mười tám, muốn nói là nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thấy người bệnh, lại khởi tâm ác, không chăm sóc, lo lắng cho người bệnh, sẽ phạm tội sơ ý. Còn nếu như không phải vì ác tâm, mà chỉ vì biếng nhác, vô trách nhiệm, thì cũng phạm, song tương đối nhẹ hơn. Theo quyển Du Già Bồ Tát Giới, có mười trường hợp khai duyên, tuy không chăm sóc người bệnh, mà vẫn không phạm, là khi: (1) tự mình có bệnh; (2) hoặc mình không đủ khả năng, sức lực; (3) hoặc mình nhờ kẻ có sức lực, có khả năng, chăm sóc dùm người bệnh; (4) hoặc mình biết người bệnh có bà con, thân thích, có thể chăm sóc cho họ; (5) hoặc người bệnh còn sức lực, có thể tự lo liệu; (6) hoặc bệnh của người đó thường phát tác (lành rồi lại bệnh, bệnh rồi lại lành); (7) hoặc người đó bị bệnh kinh niên; (8) hoặc mình đang phải chuyên tâm tu tập, không thể tạm bỏ phế việc tu hành; (9) hoặc tự mình là người ám độn, sự tu tập hạnh Bồ tát chưa được tiến bộ; (10) hoặc mình đang chăm sóc người bệnh khác.
(4) Giới không bố thí người đến xin:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thấy người đến xin, không tùy sức mình mà bố thí ít nhiều, để cho kẻ đến xin ra về tay không, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Bố thí: bao gồm cả tài thí, pháp thí, và vô úy thí.
Ðể cho kẻ đến xin ra về tay không (Hán: không khiển hoàn): Theo nghĩa chữ Hán, không những không cho mà còn xua đuổi (khiển) họ đi. Ðiều giới này, đối với Bồ tát Bồ tát tại gia, vì còn ở trình độ sơ cơ, nên phán tội tương đối nhẹ, còn nếu y vào Du Già Bồ Tát Giới mà phán tội thì: nếu có người đến xin mà bỏn sẻn, không bố thí (dù ít dù nhiều), mà lại còn xua đuổi, sẽ phạm trọng (ba la di tội).
(5) Giới không chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, gặp các vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc các vị Bồ tát tại gia thọ giới trước, không đứng dậy tiếp đón, lễ lạy, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Bồ tát tại gia thọ giới trước: nghĩa là những kẻ thọ giới Bồ tát tại gia trước mình (dù một ngày, một giờ, hay một phút).
(6) Giới khinh mạn người phạm giới:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thấy tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di phạm giới, sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình hơn họ, họ không bằng mình, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Kiêu mạn là một trong năm phiền não căn bản, tức là tham, sân, si, mạn, và nghi. Tự cho mình là cao, rồi từ đó lăng nhục, khinh miệt kẻ khác, không có lòng bao dung, kính trọng. Do đó mà tự chiêu lấy rất nhiều phiền não. Kinh Ðại Tập nói: "Phá núi kiêu mạn, nhỗ cây sinh tử", do đây mà biết rằng kiêu mạn và sinh tử là hai sự chướng ngại quan trọng ngang nhau, mà hành giả tu tập Phật pháp cần phải phá diệt trước nhất.
Hơn nữa, Phật nói nhân quả, tự mình làm tự mình chịu. Kẻ trì giới được quả lành, kẻ phạm giới bị quả ác, do đây, thấy kẻ khác phạm giới, tự mình nên đề cao cảnh giác, hoặc đem lòng từ bi mà đối đãi với họ. Nếu sinh tâm khinh mạn, tức là đi ngược lại bổn nguyện của mình, vi phạm giới pháp mà mình đã thọ, do đó Phật mới chế định điều giới này để răn cấm chúng ta. Còn như, nếu lại đi rao nói sự phạm giới của họ, thì sẽ phạm vào điều giới trọng thứ năm, rao nói tội lỗi của bốn chúng.
(7) Giới không thọ sáu ngày bát quan trai giới mỗi tháng:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, mỗi tháng không thọ sáu ngày bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Nếu mỗi tháng không thọ sáu ngày bát quan trai giới (Hán: Nhất nguyệt chi trung, bất năng lục nhật thọ trì bát giới): Sáu ngày bát trai giới, tính theo âm lịch, là các ngày 8, 14, 15, 23, 29, 30 (28, 29, nếu là tháng thiếu). Tám điều giới gọi là quan (đóng lại), nghĩa là đóng cửa tà ác, còn điều "không ăn phi thời" gọi là trai, tức là không ăn quá ngọ.
Phụ chú: Nếu Bồ tát tại gia, vì hoàn cảnh không thuận tiện, không thể thọ trì sáu ngày bát trai giới trong một tháng, tốt nhất nên tạm xả điều giới này, sau đó chọn những ngày thuận tiện trong tháng để thọ bát trai giới, cũng sẽ hoạch được rất nhiều công đức.
(8) Giới không đi nghe pháp:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, trong vòng bốn mươi dặm có chỗ giảng kinh thuyết pháp mà không đến nghe, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Trong vòng bốn mươi dặm: Bốn mươi dặm là tính theo dặm Tàu, tức là khoảng mười hai cây số. Thời đức Phật, phương tiện giao thông chính là đi bộ, cho nên thời gian để đi bộ mười hai cây số là khoảng bốn tiếng đồng hồ. Hiện nay, giao thông tiện lợi, khoảng cách có thể tùy đó mà nới rộng ra.
Phụ chú: Ðức Như Lai chế định giới luật, không phải là những giới điều cứng nhắc, mà luôn luôn tùy hoàn cảnh của kẻ thọ giới mà phán định. Giả như kẻ thọ giới không có phương tiện giao thông, hoặc bận rộn công việc, lo sinh kế gia đình, không thể đến nghe pháp, thì có thể mượn băng giảng kinh về nghe cũng tốt, song công năng phát sinh do sự nghe băng không thể so với công năng của sự nghe trực tiếp với vị thầy giảng pháp.
(9) Giới thọ dụng đồ dùng của chư Tăng:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thọ dụng đồ dùng của chư Tăng, như ngọa cụ, giường, ghế, v.v..., thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Thọ dụng đồ dùng của chư tăng (Hán: thọ chiêu đề tăng ngọa cụ, sàng, tòa): Trong câu chữ Hán, "chiêu đề tăng", dịch là tứ phương tăng, nếu nói tổng quát là chỉ tất cả các bậc xuất gia. Ngọa cụ, theo nghĩa rộng là đồ nằm, tức là mền, mùng, chiếu, gối, v.v..., sàng tòa, tức là ghế, bàn, giường, v.v... Hơn nữa, chữ thọ, theo tiếng Hán, có hai nghĩa: (1) nhận lấy, (2) sử dụng. Thành thử, điều giới này có hai lối giải thích: (1) không được thọ nhận đồ của chư tăng (nếu họ cho mình), (2) không được sử dụng đồ của chư tăng.
Bản chú giải tiếng Hoa của cư sĩ Trí Minh giải thích như sau: "Ưu bà tắc, ưu bà di, tuy đã thọ giới Bồ tát tại gia, song thân tâm vẫn còn "bất tịnh", nếu sử dụng đồ dùng của "chiêu đề tăng", như đồ nằm, giường, ghế, v.v..., không phải là không nhiễm ô (bị nhiễm ô), đây là sự bất kính. Vì lý do này, Bồ tát tại gia không thể sử dụng."
Phụ chú: Kẻ tại gia sử dụng đồ đạc của người xuất gia, e rằng đối với các bậc xuất gia sẽ sinh tâm khinh lờn, vì thế tốt nhất nên giữ khoảng cách, đối với đồ dùng của các bậc xuất gia, không nên sử dụng.
(10) Giới uống nước có trùng:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nghi nước có trùng, mà vẫn cố ý uống, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Nghi nước có trùng: Chữ trùng ở đây, phải hiểu là những sinh vật có tầm kích mà mắt có thể thấy được, do đó một bản giới bổn tiếng Anh dịch là "insect". Nếu như mắt thường không thể nhìn thấy thì kể như không có, và được xem là không phạm. Còn nếu như cho rằng chữ trùng có nghĩa là vi sinh vật (micro-organism), thì e rằng tất cả loại nước mà chúng ta sử dụng, trừ loại nước thuần khiết (pure water), đều có trùng ở trong, và như vậy, đã ra ngoài phạm vi của điều giới này.
Phụ chú: Ðiều giới này, trong hoàn cảnh hiện nay, tương đối khó phạm, vì mọi nơi đều có cung cấp nước uống tinh khiết, chỉ khi nào lâm vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, như đi lạc vào rừng sâu, chẳng hạn, mới phải đặt ra vấn đề này. Ðiều quan trọng ở đây là sự "cố ý uống", còn nếu như vô ý, không biết có trùng, thì không phạm.
Ngài Ấn Thuận, trong bài "Bàn luận về sự ăn chay", đã viết cảm nghĩ như sau: " ... Có kẻ chủ trương ăn thịt không có gì phương ngại, hoặc có kẻ cho rằng không thể không ăn thịt. Những kiến giải của những kẻ ăn thịt này, rất là phức tạp, nhưng điều mà bọn họ coi thường mọi người nhất, là treo lên cái chiêu bài giả dối, mệnh danh khoa học. Bọn họ cho rằng: "Chúng ta không thể không sát sinh, không sát sinh là điều bất khả". Cho nên theo bọn họ, từ sự không sát sinh đưa đến sự không ăn thịt, là điều vô ý nghĩa. Bọn họ cho rằng cây cỏ cũng có sinh mệnh, cho nên những kẻ ăn rau trái, cũng không tránh khỏi sự sát sinh. Bọn họ cho rằng: "Ăn chay (không ăn thịt) cũng không phải là triệt để, như khi uống một hớp nước, trong nước có biết bao nhiêu sinh vật! Hít một hơi thở vào, trong không khí cũng có biết bao nhiêu sinh mệnh. Nếu như muốn chân thật không sát sinh, không ăn thịt, thì phải nên không uống nước, không hít thở không khí. Như thế, chỉ có sự chết mà thôi!
... Phật giáo nói đến sự sát sinh và không sát sinh, trong đó bao hàm tính chất thiện ác (đạo đức, không đạo đức). Ðiều này chẳng phải thuộc về phạm vi của thế giới khoa học (vật lý, hoá học, v.v...), mà cũng chẳng phải là những vật hiện ra dưới kính hiển vi, hay trong kính viễn vọng (trong khoa học vật lý không có sự phân biệt giữa thiện và ác), mà đây là sự việc thuộc về phạm vi của thế giới đạo đức, là nơi có sự pha trộn giữa lý và tình, có sự tương quan giữa tâm và sắc, cho nên vấn đề phải được bàn luận qua sự quan hệ của tình và lý, tâm và cảnh.
Trước tiên, từ đối tượng của sự sát sinh mà nói: sát sinh, nghĩa là muốn nói đến sự sát hại những sinh vật có tình thức (cũng gần giống như người thường nói đến động vật). Các chúng sinh có tình thức, đều có bản năng là "ham sống sợ chết". Nếu như chúng nó bị tổn thương, hay bị giết chết, đều sinh khởi sự sợ hãi, thống khổ, oán hận, phẫn nộ, chống đối. Ví như, nếu có sự giết nhau giữa người và người, đôi bên sẽ tạo thành sự kết thù, kết oán, mưu hại lẫn nhau. Còn cây cỏ là những vật không có tình thức, tuy có những hiện tượng của một sinh mệnh như sinh sản, dinh dưởng, v.v..., thế nhưng, lúc bị tổn hại, chúng chỉ có những phản ứng vật lý, mà không có những phản ứng tâm thức. Chẳng hạn, như khi chúng ta đốn cây, chặt cỏ, điều này không làm cho cây cỏ sinh khởi sự chống đối, tàn hại lẫn nhau, vì thế, chúng ta cũng không bị ảnh hưởng bởi nghiệp lực của sự tàn sát. Cho nên, Phật giáo nói đến sát sinh, là chú trọng đến vấn đề đối phương có sinh khởi phản ứng của tâm thức hay không? Nhân đây có đưa đến liên hệ của sự thù hận, đối địch hay không? Cái luận điệu "ăn chay là sát sanh", hiển nhiên là do việc không hiểu rõ sự thực này, mà cũng không hiểu rõ ý nghĩa thực sự của sự tại sao lại cấm đoán sát sanh! ..."
(11) Giới đi một mình trong chổ nguy hiểm:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, đi một mình trong chỗ nguy hiểm, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Chỗ nguy hiểm (Hán: hiểm nạn xứ): tức là, như trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, điều giới khinh thứ ba mươi bảy có nói rõ: "Chớ đi đến những chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, những chỗ có sư tử, cọp, sói, cùng những nơi có lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, hoặc đường sá có rắn rít, v.v..."
Ði một mình (Hán: vô bạn độc hành): Dù có bạn cùng đi, cũng vẫn phải suy xét là có thể cùng nhau giải trừ các hiểm nạn hay không. Nếu có thể, thì nên đi; còn nếu không, cũng không nên đi vào những chỗ nguy hiểm.
"Thân người khó được", nay đã được thân người, phải khéo sử dụng nó, không thể mạo hiểm một cách phi lý, làm tổn hại thân mệnh. "Phật pháp khó nghe", những kẻ đã thọ giới Bồ tát tại gia, đều đã phát tâm Bồ đề, đã phát bốn hoằng thệ nguyện "trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh", nếu mạo hiểm gặp sự tổn hại, đây cũng