;
Từ một khuôn hội Tân Ninh đơn sơ, Hòa thượng đã kiến lập nên một ngôi chùa khang trang để Tăng chúng và đạo hữu có nơi tu tập được thanh tịnh. Ngoài ra, với tấm lòng Từ Bi, Hòa thượng đã giúp đỡ bao nhiêu số phận cơ nhỡ cực khổ, cứu vớt những cảnh đời tưởng chừng như không có lối thoát.
Hòa thượng thế danh Trương Thước, Pháp danh Như Đạt, tự Giải Huy, hiệu Giác Hoàng, sinh ngày 20 tháng 10 năm Quý Mùi (1943) tại xã Xuân Trung, tổng Chiên Đàn, nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là Cụ ông Trương Tung pháp danh Như Tắc và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Quát. Được sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, nhiều vị trong gia tộc đầu Phật xuất gia như Hoà thượng Thích Phước Lộc: khai sơn chùa Xuân Sơn,Tam Kỳ; Các vị Đại sư Thích Phước Thọ, Thích Trí Dinh v.v…hành đạo tại Thị xã Tam Kỳ vào những thập niên 30-40. Về sau thân phụ Ngài cũng đầu Phật xuất gia với đạo hiệu Thích Trí Sum, trụ trì chùa Xuân Sơn tại quê nhà. Với những thiện duyên như thế, nên từ thuở ấu thơ, trong tâm Hoà thượng chủng tử Bồ để đã sớm nảy nở, thầm nguyện nối gót tiền nhân tìm đường xuất thế. Năm Bính Thân (1956), Hoà thượng được thân phụ đưa đến Tổ đình Chúc Thánh, Hội An nhập chúng tu học và được Hoà thượng Tăng cang Thích Thiện Quả ban cho pháp danh Như Đạt. Với tuổi ấu thơ hồn nhiên thật thà được tu tập nơi chốn tổ nên đạo tâm của Ngài ngày càng tăng trưởng. Năm Nhâm Dần (1962), Hoà thượng Bổn sư viên tịch nên Hoà thượng đã cầu pháp với Hoà thượng Tăng cang Thích Tôn Bảo tại chùa Vu Lan, thị xã Đà Nẵng để tiếp tục chí nguyện tu học của mình.
Cũng trong năm này, vào ngày mồng 8 tháng Chạp, Hoà thượng được truyền trao Sa di giới tại Tổ đình Phước Lâm, Hội An do Hoà thượng Thích Tôn Bảo làm Đường đầu Hoà thượng. Vào ngày Rằm tháng 4 năm Bính Ngọ (1966), Hoà thượng được Hoà thượng Tôn Bảo ban Điệp thế độ với Pháp tự Giải Huy, truyền thừa đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 Pháp phái Chúc Thánh. Năm Đinh Mùi (1967), Hoà thượng nhập chúng tu học tại chùa Tam Thai, Ngũ Hành Sơn dưới sự chỉ dạy của Cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Giác. Năm Mậu Thân (1968) Ngài về nhập chúng tại chùa Từ Tôn sau đó là trụ xứ Vu Lan tu học với Hoà thượng y chỉ sư. Năm Canh Tuất (1970), Hoà thượng được đăng đàn thọ giới Cụ túc tại Đại giới đàn Vĩnh Gia do Đại lão Hoà thượng Thích Giác Nhiên, đệ nhị Tăng thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất làm Đường đầu Hoà thượng. Sau khi đắc giới, Hoà thượng được Bổn sư phú pháp hiệu là Giác Hoàng.
Cũng trong thời gian này, Hoà thượng đảm nhận Phật sự tại chùa Từ Tâm (nay nằm trong khu đất Bệnh viện C). Năm 1978, chùa Từ Tâm bị giải toả nên Giáo hội đã cử Ngài về trụ trì chùa Tân Ninh, từ đây cuộc đời của Ngài gắn bó với ngôi chùa này cho đến ngày viên tịch. Năm Mậu Dần (1998), Hoà thượng khởi công đại trùng tu chùa Tân Ninh, công việc trùng tu kéo dài gần 10 năm mới hoàn tất. Chùa Tân Ninh khang trang như hôm nay là do Ngài đã dành hết tâm huyết để trang nghiêm Phật tự ngõ hầu báo Phật ân đức. Năm 2002, Ngài được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng toạ và đến năm 2012 được TW Giáo Hội tấn phong hàng Giáo phẩm Hoà thượng.
Ngày 13 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (2014), Hòa thượng đã thâu thần thị tịch để lại niềm xót xa vô cùng cho chúng đệ tử xuất gia cũng như tại gia.
Để tưởng nhớ đến công ơn to lớn đó, môn đồ pháp quyến và đạo hữu Phật tử chùa Tân Ninh đã tổ chức lễ tưởng niệm và pháp hội trai Tăng cúng dường nhân ngày lễ Đại tường Cố Hòa thượng dưới sự chứng minh và tham dự của HT. Thích Như Thọ - TV HĐCM GHPGVN, CM BTS GHPGVN Tp Đà Nẵng; HT. Thích Thiện Nguyện - UVTT HĐTS GHPGVN, Trưởng BTS GHPGVN Tp Đà Nẵng cùng Chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni.
(Ban TTTT PG Đà Nẵng)