;
Tham dự buổi lễ có HT. Thích Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng Ban Hoằng pháp TƯ, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Hà Tĩnh; Thượng tọa Thích Chiếu Tuệ, UV HĐTS, Phó TT BTS GHPGVN tỉnh Hà Tĩnh; Chư tôn đức trụ trì các tự viện huyện, thị, thành, đông đảo phật tử các đạo tràng trong toàn tỉnh về tham dự.
Đông đảo Chư tôn đức Tăng ni Phật giáo tỉnh nhà vân tập về dự lễ tưởng niệm.
Đại diện lãnh đạo chính quyền có ông Hà Văn Thạch – UV BTV, Trưởng ban Kiểm tra Tỉnh ủy; ông Dương Xuân Hòa,Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy; ông Trần Minh Kỳ, nguyên PCT UBND tỉnh; ông Đào Văn Hải, Phó Trưởng ban Tôn giáo tỉnh; ông Hoàng Anh Đức, Phó chủ tịch UBMT tỉnh; ông Dương Đình Kim, nguyên Trưởng phòng PA88; ông Nguyễn Trung Thành, Phòng PA 88 công an tỉnh; Bà BÙi Thị Loan, Trưởng phòng Phật giáo Ban Tôn giáo tỉnh; ông Nguyễn Trọng Hiếu, Phó Giám đốc Sở Tài chính; đại diện lãnh đạo Thành phố Hà Tĩnh, phường Đại Nài, đại diện một số phòng, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, thành phố, phường, khối phố...
Mở đầu buổi lễ, TT.Thích Chiếu Tuệ, Phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh cung tuyên tiểu sử đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông, ôn lại cuộc đời và sự nghiệp, những cống hiến to lớn của Ngài với dân tộc và đạo pháp, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ quốc an dân đã từ bỏ ngai vàng, lên núi Yên Tử tu hành, lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Thượng tọa Thích Chiếu Tuệ cung tuyên tiểu sử Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Tiểu sử của Ngài có đoạn:“Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.
Ngài học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, được Thượng Sĩ hết lòng hướng dẫn và trao đổi những yếu nghĩa Thiền tông. Ngài tâm đắc nhất là câu: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Quan sát lại chính mình đó là bổn phận, không do người khác làm được) và tôn thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm Thầy. Ngài thường tới lui chùa Tư Phúc trong kinh thành để tụng kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.
Năm 21 tuổi (1279), Ngài được Trần Thánh Tông truyền ngôi, trị vì thiên hạ Đại Việt, lấy đức trị vì, dân chúng an cư lạc nghiệp, lấy niên hiệu là Thiệu Bảo.
Năm 1282, Ngài chủ trì Hội nghị Bình Than để lấy ý kiến toàn dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Năm 1284, trước khi cuộc chiến tranh diễn ra, Ngài chủ trì Hội nghị Diên Hồng, lấy ý kiến các vị Bô lão, những người đứng đầu các Bộ lạc. Toàn thể hội nghị già trẻ, gái trai đều một lòng tung hô quyết chiến.Năm 1285, với tinh thần bảo vệ dân tộc, Tổ quốc của toàn dân, Ngãi đã lãnh đạo và chiến thắng cuộc xâm lăng Nguyên – Mông lần thứ nhất.
Hàng nghìn Phật tử vân tập về chùa Cảm Sơn lễ Phật, bái Tổ.
Với ý đồ bành trướng Phương Nam, tiến chiếm Chiêm Thành, làm bàn đạp thôn tính Đại Việt, Trần Nhân Tông lại một lần nữa lãnh đạo cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, với sự quyết tâm chiến thắng của toàn quân, toàn dân, Ngài đã chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ hai năm 1288. Cảm hứng trước sự chiến thắng của dân tộc, Ngài đã làm hai câu thơ lưu lại:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng”.
Năm 41 tuổi (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1294, Ngài cầm quân sang chinh phạt Ai Lao, giữ yên bờ cõi và làm cho nước Triệu Voi tiếp tục thần phục Đại Việt.
Sau khi chinh phạt Ai Lao, Ngài trở về Hành cung Vũ Lâm – Ninh Bình, cầu Quốc sư Huệ Tuệ làm lễ Xuất gia, tập sự tu hành tại đây một thời gian. Năm 1299. Ngài quyết tâm trở lại thăm Kinh sư lần cuối, rồi đi thẳng lên núi Yên Tử – Quảng Ninnh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy tên là “Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban pháp hiệu là Pháp Loa.
Năm 1307, Ngài truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, lên làm Sơ Tổ Trúc Lâm và Pháp Loa là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Trong thời gian đó, Ngài thường lui tới chùa Báo Ân Siêu Loại, Sùng Nghiêm Hải Duơng, Vĩnh Nghiêm Lạng Giang, chùa Từ Lâm, chùa Quỳnh Lâm Đông Triều để giảng kinh, thuyết pháp và chứng minh các Lễ hội…
Sau khi truyền Y Bát cho Tôn giả Pháp Loa, Ngài tập trung biên soạn Kinh sách và Ngữ lục. Qua đó, Ngài đã để lại cho đàn hậu học một số tài liệu vô cùng quý báu như: Trần Nhân Tôn thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Trung hưng Thực Lục, Truyền Đăng Lục v.v….
Theo sử cũ, Ngài xả báo an tường, thâu thần thị tịch ngày 01/11/Mậu Thân (1308). Thọ thế 51 năm tại am Ngọa Vân – Đông Triều – Quảng Ninh. Vua Trần Anh Tông cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long cử hành Quốc tang trong thời gian hai tuần. Sau đó, Vua quan, quần thần, văn võ bá quan, đệ tử Pháp Loa, Bảo Sát và chúng Tăng trong nước cử hành Lễ Trà tỳ.
Sau khi thu nhặt Xá lợi, Xá lợi được chia làm hai phần, một phần xây tháp thờ ở Lăng Quý Đức phủ Long Hưng – Thái Bình; một phần xây tháp tôn thờ tại chùa Vân Yên – Yên Tử, Quảng Ninh, lấy hiệu là Huệ Quang Kim Tháp, dâng Thánh hiệu: Đại Thánh Trần Triều, Trúc Lâm Đầu Đà, Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ.”
Trong không khí trang nghiêm, toàn thể Chư tôn đức Tăng, Ni, Phật tử và khách quý đối trước tôn tượng của Ngài dâng nén tâm hương, thành kính cúi đầu đảnh lễ tri ân Đại Tổ sư, hướng lòng về non thiêng Yên Tử, nơi Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông tu hành đắc đạo, lập ra Thiền phái Trúc lâm Yên Tử, một phái thiền đặc sắc, nhập thế và rất riêng của Việt Nam. Với những đóng góp to lớn cho dân tộc và đạo pháp, Ngài được tôn vinh là Điều Ngự Giác hoàng vì những đóng góp vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, người anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại, của non sông đất nước Việt.
Lời tưởng niệm do Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cung tuyên có đoạn; “Trên tinh thần sắc tướng vốn không, mượn cảnh huyễn, độ người như huyễn, tử sinh nào có, nương thuyền từ độ kẻ trong mê, như Tổ sư đã dạy ‘Tất cả pháp không diệt. Ai hiểu được như vầy. Thì chư Phật hiện tiền. Nào có đến có đi’.
Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cung tuyên diễn văn tưởng niệm Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Do đó, dù thời gian có đi qua hơn 700 năm, không gian có biến dịch, song công đức, đạo nghiệp của Tổ sư vẫn còn sống mãi trong trang sử vàng son của dân tộc, của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp hộ quốc an dân, đoàn kết hòa hợp toàn dân, phát huy Đạo pháp trong thời đại ngày nay và mãi mãi về sau. GHPGVN hôm nay nguyện tiếp tục sự nghiệp quang huy của Tổ, xây dựng một Tịnh độ tại nhân gian bằng tinh thần Phật giáo Việt Nam, con người Việt Nam và Dân tộc Việt Nam”.
Đại chúng bày tỏ một lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ lịch đại Tổ sư, phát nguyện phụng trì Phật pháp, phát huy chân lý đạo nhà, giữ gìn tổ ấn vàng son, làm rạng rỡ tổ ấn vàng son một cõi bền muôn thuở.
Trước đó, sáng sớm cùng ngày, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm đã cử hành nghi lễ cúng lịch đại Tổ sư, toàn thể Chư tôn đức, Phật tử vân tập về chánh điện tụng kinh, niệm Phật, bái lạy Chư tổ.
Hòa thượng Trưởng ban cử hành nghi thức cúng lịch đại Chư vị Tổ sư.
Mỗi năm, vào dịp tưởng niệm Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, Phật giáo Hà Tĩnh lấy ngày 3.11 (âm lịch) làm ngày tưởng niệm lịch đại Chư vị Tổ sư nhiều thế hệ, truyền giáo truyền giới, kiến lập già lam trên vùng đất xứ Nghệ, qua đó thể hiện tinh thần tri ân và giáo dục thế hậu lai có trách nhiệm với lịch sử của tiền nhân, luôn trân trọng và gìn giữ, kế thừa và phát huy những tinh hoa của các Ngài, đó cũng là nét đẹp có tính lịch sử văn hóa của một dân tộc mà nền Phật giáo đã tồn tại xuyên suốt mấy nghìn năm lịch sử.
Tưởng niệm tri ân lịch đại Tổ sư, tiền nhân là giáo dục thế hệ tương lai biết gìn giữ giá trị cội nguồn, tự hào về truyền thống Phật giáo Việt Nam.
Dịp này là cơ hội có sự hiện diện đầy đủ của toàn thể chư Tăng, Ni trú xứ hành đạo trên vùng đất Hà Tĩnh tìm về cội nguồn trên bước đường tìm cầu giải thoát, hiểu biết thêm về lịch sử Phật giáo vùng đất Châu Hoan xưa, nơi Phật giáo xuất hiện đầu tiên qua câu chuyện Chữ Đồng Tử học đạo với Đại sư Phật Quang trên núi Quỳnh Viên, gần cửa Sót (cửa Nam Giới) năm 294 trước công nguyên, thuộc Hà Tĩnh ngày nay.
Kết thúc buổi lễ, Chư tôn đức, cùng quý quan khách quý Phật tử dùng bữa cơm giổ tổ thân mật, khép lại đại lễ thành tựu viên mãn.
Một số hình ảnh ghi nhận tại buổi lễ.