;
Hôm nay về thăm lại ngôi chùa cổ gần 350 năm nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, ngày Lễ Bông Hồng Cài Áo, Pháp hội Bách Tăng, Trai Tăng cúng dường, ngày diễn ra Khóa tu niệm Phật một ngày an lạc lần thứ 89, đánh dấu đã có hơn hai vạn lượt Phật tử đều đặn hàng tháng, đến đạo tràng Minh Thiện Niệm Phật Một Ngày An Lạc, cầu cho bản thân và gia đình an lạc. ..
Trong lịch sử dân tộc Việt, Khánh Hòa chính thức trở thành đất đai Đại Việt từ năm 1653, mảnh đất nằm ở vùng duyên hải miền Trung, miền thùy dương cát trắng, với những hàng dừa xanh tít tắp, bờ biển ngút ngàn, nơi nổi danh là xứ Trầm hương
Từ thị trấn Diên Khánh đi về hướng Tây, qua khỏi cửa Đông, rồi qua cửa Tây, đi dọc theo tỉnh lộ 2, khoảng 3 km, rẽ vào hương lộ bên trái khoảng 100m là đến chùa Sắc Tứ Minh Thiện – ngôi chùa cổ gần 350 năm, một danh thắng, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, ở làng quê Thanh Minh, xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Giữa dòng chảy lịch sử
Từ giữa thế kỷ XVII (1653), vùng đất Khánh Hòa ngày nay đã trở thành một phần lãnh thổ của nước ta. Theo Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát: "Bia Võ Cạnh tìm thấy tại làng Võ Cạnh ở Nha Trang, thường được các nhà nghiên cứu xác định là xuất hiện vào thế kỷ thứ II sau Dương lịch viết bằng chữ Phạn. Phạn văn trở thành một ngôn ngữ được khắc trên đá từ thời ấy, ghi lại nền văn minh Ấn Độ lúc bấy giờ chủ yếu là đạo Phật".
Trước khi đất Khánh Hòa thuộc về Việt Nam thì Phật giáo đã có mặt tại Khánh Hòa hơn mười bốn thế kỷ trước. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng như các bộ sử Đại Nam thực lục, “Đại Nam Nhất thống chí Việt Nam sử lược do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đều ghi: “Tháng 4 năm Quý Tỵ thứ 5 (1653) đời Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế (húy Nguyễn Phúc Tần), vua Chiêm Thành là Bà Tấm xâm lấn đất Phú Yên. Phúc Tần sai Cai cơ Hoàng Lộc Hầu làm Tổng binh và Xá Xai Minh Võ Hầu làm Tham mưu đem ba ngàn quân đánh trả. Nhân đêm, quân Nguyễn qua đèo Hổ Dương núi Thạch Bi thẳng đến trại Bà Tấm phóng lửa đốt phá. Bà Tấm thua chạy, sai con là Xác Bà Ân nộp lễ xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Rang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Rang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh (Khánh Hòa bây giờ). Đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm Thái thú".
Như vậy, đất Khánh Hòa vào giữa thế kỷ XVII đã trở thành một bộ phận trên cơ thể đất Việt. Nói cách khác, từ năm 1653 người Việt Nam đã bắt đầu sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất Khánh Hòa. Điều đó cũng có nghĩa là đạo Phật mang tinh thần dân tộc Việt đã có mặt tại Khánh Hòa vào năm 1653, bởi vì bất kỳ ở đâu, khi một cộng đồng dân cư đến ở đồng thời cũng mang theo truyền thống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán.
Uy nghiêm Minh Thiện tự
Chùa Sắc Tứ Minh Thiện, còn gọi là chùa Phật Lớn, bởi vì ngày xưa trong vùng này chỉ có tượng Phât Thích Ca được tôn thờ ở Đại hùng bảo điện chùa Sắc Tứ Minh Thiện là lớn nhất huyện Diên Khánh.
Chùa Minh Thiện ngày xưa trên núi Bút Sơn, làng Thanh Truyền, phủ Diên Ninh, dinh Thái Khang (nay là thôn Thanh Minh, xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa), Hiệp Đức hầu Nguyễn Phước Chiểu kiến lập vào khoảng năm 1673 (Quý Sửu), vào đời vua Lê Huyền Tông, năm thứ 10, là ngôi chùa cổ nhất tỉnh Khánh Hòa. Chỉ sau 20 năm chúa Nguyễn Phúc Tần mở đất Khánh Hòa (1653), chùa đã có mặt.
Chùa thay đổi vị trí nhiều nơi, mỗi nơi đều còn để lại dấu tích ghi đậm nét trang lịch sử Minh Thiện như: Núi Bút, Hòn Ngang (còn gọi là Hòn Tháp, nơi tôn trí tháp Tổ khai sơn), Xóm Đồng (còn gọi là Xóm chùa), Bến chùa (nơi Xí nghiệp Gỗ Việt Đức hiện nay) v.v.
Hiệp Đức hầu Nguyễn Phước Chiểu còn có tên là Thuần, Ngài con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) ở Đàng Trong. Ngài thọ giáo theo học Phật với Tổ Viên Khoan – Đại Thâm. Sau cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn đẫm máu, Hiệp Đức hầu càng hiểu rõ lý vô thường của đạo Phật. Vì vậy, ngài quyết chí từ quan xuất gia tu hành. Trong những ngày vân du về phương Nam, khi đến phủ Quy Nhơn, Bình Định, Hiệp Đức hầu có nhân duyên gặp Hòa thượng Giác Phong. Hòa thượng thấy Hiệp Đức hầu có tâm thành cầu đạo và có lòng muốn độ chúng sinh nên khen tặng bảy chữ: “Tôn nhơn tự giác, giác hàm sinh” và truyền cho bài kệ:
“Phước Chiểu liên hoa diệu
Thiền gia ngọc bát hương
Vĩnh truyền ngô tống ấn.
Chánh pháp thạnh Nam phương”
Tạm dịch:
Đài sen Phước Chiểu rạng cung đường
Bát ngọc am thiền tỏa ngát hương
Tiếp nối tông môn truyền diệu kệ
Thịnh hành chánh pháp cõi Nam phương
Từ đó Hiệp Đức hầu Nguyễn Phước Chiểu lấy hiệu là Giác Sinh Thiền Hòa tử tiếp tục vân du tu học. Đến trấn Bình Khang, (tỉnh Khánh Hòa ngày nay) Giác Sanh Thiền Hòa tử thấy ngọn Bút Sơn nằm bên bờ sông Cái, cảnh trí thích hợp cho việc tu hành nên dựng tích trượng tại đây, lập am tranh tu thiền, hoằng dương đạo pháp. Tài đức của Giác Sinh Thiền Hòa tử làm cho nhiều người kính phục, danh tiếng đồn xa, các quan chức và dân chúng khắp nơi nghe danh đã đến tham học và Quy y rất đông. Thiền sư Giác Sinh phải bỏ am tranh, xây dựng thành một ngôi chùa lớn lấy tên là Minh Thiện.
Trong sách Bình Khang thắng tích do quan Cai bạ Nguyễn Đình Xuân viết năm Tân Dậu 1740 cho biết, tên chùa Minh Thiện là do Tổ Giác Sinh lấy ý từ sách Đại học của Khổng Tử: “Đại học chi đạo tại MINH minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí THIỆN”, nghĩa là người học đạo của Thánh hiền phải sửa mình cho được sáng suốt, đức sáng giáo dục mọi người tiến tới tốt đẹp đến chỗ rốt ráo là rất hiền lành.
Chùa Sắc Tứ Minh Thiện được phong sắc tứ vào đời vua Lê Cảnh Hưng nguyên niên (1740), sau 70 năm khai sơn kiến tạo.
Sau nhiều lần thay đổi vị trí chùa, do biến động của thiên nhiên, năm 1892 (Nhâm Thìn) đời vua Thành Thái năm thứ tư, chùa được xây dựng trên vị trí hiện nay: thôn Thanh Minh, xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, do Tổ Phổ Quang kiến lập.
Ngôi chính điện chùa Sắc Tứ Minh Thiện trang nghiêm như hiện nay được đại trùng tu vào năm 1968 (Mậu Thân), dưới đời Hòa thượng trụ trì Thích Huệ Đăng.
Đúng là:
Minh bảo ngự đường trung, đăng chúc huy hoàng hưng chánh giáo,
Thiện nhân triêu điện thượng lễ cầu thành kính hiển chân tâm.
Tạm dich:
Ngôi báu ngự trong chùa đèn tỏ sáng ngời hưng đạo chánh,
Người hiền thường lên điện lạy cầu thành kính rõ chân tâm.
Sau năm 1975, Thượng tọa trụ trì Thích Thiện Thông kế thừa tiếp tục trùng tu cổng tam quan, Tổ đường, Đông lang, Tây trúc, phương trượng trú trì, giảng đường, Tịnh độ đạo tràng, tháp chuông, tượng đài Đức Quan Âm, Lộc Uyển, tháp Tổ v.v.
Các câu đối tại chùa
Trước chùa, cổng tam quan sừng sững, uy nghi, kiểu cách trang nhã, màu sắc hài hòa. Trên cổng tam quan có treo biển Chùa Minh Thiện. Mặt ngoài có câu đối:
Tự viện trang nghiêm hoàn thỉnh tề lâm phò chánh pháp
Môn quan thanh tịnh tín tăng cu hội hộ nhân gian.
Tạm dịch:
Chùa viện trang nghiêm, mọi người đến đây trợ đạo chánh
Cửa chùa thanh tịnh tín Tăng đồng về độ trần gian
Mặt cổng tam quan có câu đối:
Minh đức viên dung hóa độ chúng sanh vô lượng, vô biên vô số kiếp,
Thiện duyên thị hiện tùy cơ thuyêt giáo đại hùng đại lực đại từ bi.
Tạm dịch:
Đức sáng tròn đầy độ khắp muôn loài vô lượng, vô biên, vô số kiếp,
Duyện lành hiện rõ tùy duyên nói pháp đại hùng, đại lực, đại từ bi.
Vào trong cổng chùa là tượng đài đức Quan Thế Âm Bồ tát tay cầm tịnh bình và nhành dương liễu được tôn trí giữa hồ sen, tạo nên cảnh sắc thanh tịnh, trang nghiêm, đang dõi mắt nhìn xa xăm như nguyện cứu khổ cứu nạn cho dân lành ở làng quê Thanh Minh, Diên Lạc.
Ngôi chính điện Minh Thiện uy nghi, hai bên có cổ lầu, lầu chuông và lầu trống, góc mái uốn cong, bốn góc có giao long uốn lượn. Trên nóc mái có lưởng long chầu nguyệt. Trước hiên với hoành phi: “Sắc Tứ Minh Thiện”, bên tay phải hoành phi ghi “Hoàng triều Cảnh Hưng, nguyên niên sắc phong”, bên tay trái ghi “Mậu Thân niên kiết nhựt trùng hưng”, phía dưới “Minh Thiện tự Trú trì hiệu Huệ Đăng tạo”, cho ta biết chùa được phong sắc tứ vào thời Vua Lê Cảnh Hưng năm thứ nhất (1740), chánh điện được đại trùng tu vào năm Mậu Thân (1968), ngày lành, Trú trì chùa Sắc Tứ Minh Thiện, Hòa Thượng hiệu Huệ Đăng trùng hưng..
Tại Đại hùng bảo điện, trên bệ thờ Thế Tôn, tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già trên toà sen. Chính giữa chánh điện là bức hoành phi: “Giác hoàng điều ngự”
Hai bên là câu đối:
Tuyết lãnh cửu tu chân phước huệ dung thông tam giới thiên nhân đồng kính ngưởng,
Kỳ viên tuyên diệu pháp từ bi hỹ xã thập phương đàn tín tịnh quy y.
Tạm dịch :
Chín năm núi tuyết tu hành phước huệ dung thông ba cõi trời người đều kính ngưỡng,
Vườn Kỳ nói diệu pháp từ bi hỹ xã mười phương đàn tín thảy nương về.
Hai bên chánh điện, một bên là bàn thờ đức Quán Thế Âm, Quan Thánh Đế Quân và một bên là bàn thờ Địa Tạng Vương Bồ tát. Sau chính diện là Tổ đường thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma và long vị của Chư vị Tổ sư tiền bối nơi ghi đậm dấu ấn của Chư vị Tổ sư đã khai sơn, nối tiếp truyền thừa cho đến ngày nay.
Ở trên bàn Tổ là bức hoành phi: “Truyền đăng tục diệm”, hai bên bàn Tổ với câu đối:
Tổ đức lưu phương ngộ chi nhất hoa khai ngũ diệp,
Tông phong vĩnh chấn y bằng lưỡng túc chứng tam thừa.
Tạm dịch:
Tổ đức truyền lưu vốn một cành hoa ra năm lá,
Tông phong hưng thạnh đúng là lưỡng túc chứng ba thừa.
Phía trước Tổ đường là bức hoành phi: “Tổ ấn trùng quang” và hai bên với câu đối:
Phiền não thọ thôi liễu vạn pháp tức tâm tức Phật,
Bồ đề quả hiện ngộ nhất tâm phi sắc phi không.
Tạm dịch:
Phiền não diệt rồi rõ muôn pháp tức tâm tức Phật,
Bồ đề đắc đạo ngộ một lòng chẳng sắc chẳng không.
Chùa Minh Thiện được khai sáng, phát triển và truyền thừa qua 13 đời trụ trì, đã hằng ghi dấu công đức của Chư vị Tổ sư tiền bối dày công tô bồi, vun đắp lưu lại đến ngày nay.
Sắc tứ Minh Thiện truyền thừa qua các thời kỳ:
Chùa Minh Thiện được khai sáng, phát triển và truyền thừa qua 13 đời trụ trì, đã hằng ghi dấu công đức của Chư vị Tổ sư tiền bối dày công tô bồi, vun đắp lưu lại đến ngày nay.
- Tổ Khai sơn: HT.Thích Tịnh Đức- Phổ Châu (Giác Sanh Thiền Hòa) : 1673-1675;
- Tổ thứ 2: HT.Thích Minh Hiền: 1675-1693;
- Tổ thứ 3: HT.Thích Thành Thông (Thành Chia – Pháp Thông): 1694-1735;
- Tổ thứ 4: HT. Thích Minh Chơn ?
- Tổ thứ 5: HT.Thích Thiệt Bửu (Thiệt Vinh- Bửu Hạnh): 1736-1740;
- Tổ thứ 6: HT Thiệt Địa – Pháp Ấn: 1740-1771;
- Tổ thứ 7: HT.Tế Hải (Tế Hiệp – Hải Điện): 1805 ?
- Tổ thư 8: HT: Loeeux Thành – Đại Phước ?
- Tổ Thứ 9: HT.Ngộ Giáo – Phổ Châu ?
- Tổ thứ 10: HT.Thích Tánh Tú, tự Ngộ Thông, hiệu Phổ Quang: 1892-1930;
- Tổ thứ 11: HT.Thích Hải Ấn tự Khế Hiệp hiệu Chánh Thành: 1930-1958;
- Tổ thứ 12: HT.Thích Huệ Đăng, húy thương Không hạ Phát tự Trí Minh: 1962-1975;
Trụ trì đời thứ 13 chùa Sắc Tứ Minh Thiện là Hòa thượng Thích Thiện Thông, pháp danh Như Hải, tự Thiện Thông, hiệu Kế Chánh đời thứ 42 thuộc dòng Lâm Tế chánh tông, trụ trì từ năm 1975 đến nay.
Hòa thượng Thích Thiện Thông đã kế thừa và phát triển xây dựng toàn quang cảnh ngôi Tam bảo Sắc Tứ Minh Thiện trang nghiêm, tú lệ, rộng rãi, uy nghi, xứng danh là ngôi cổ tự, một danh thắng gần 350 năm tuổi, ngôi chùa cổ nhất tỉnh Khánh Hòa.
Thật đúng là:
Đạo truyền KẾ CHÁNH danh
Vạn pháp bổn tâm sanh
Hành giải y sư giáo
Thánh quả định viên thành!
Tạm dich:
Kế Chánh Thầy ban đạo hiệu này
Trùng trùng muôn pháp bởi tâm đây
Tri hành y cứ lời sư trưởng
Quả vị Chơn Như tất hiển bày.
(HT.Thích Huệ Đăng)
Hôm nay về thăm lại ngôi chùa cổ nhân mùa Vu lan báo hiếu, ngày Lễ bông hồng cài áo, Pháp hội Bách Tăng, trai Tăng cúng dường, ngày diễn ra Khóa tu niệm Phật một ngày an lạc lần thứ 89,- đánh dấu đã có hơn hai vạn lượt Phật tử đều đặn hàng tháng, đến đạo tràng Minh Thiện niệm Phật một ngày an Lạc, cầu cho bản thân và gia đình an lạc.
Thế mới nhớ ra, mới đây mà Hòa thượng Thích Huệ Đăng- phương trượng chùa Sắc tứ Minh Thiện – người có công đức lớn đặt nền móng khai sơn đạo tràng Niệm Phật đã quãy dép quy Tây qua 8 mùa sen nở…
Ôi, Tổ Quy Sơn Đại Viên Thiền sư đã dạy “Nhật nguyệt dị mại, nhược phất vân lai, sinh giã bất tu tử tương hề cụ!” (Ngày tháng mau qua, bằng qua rôi khó mong quay lại, Sống mà chẳng tu chết đem theo thứ gì?)
Đêm Nha Thành đầu thu 2017