;
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính thưa quý vị đại chúng, quí vị Phật tử gần xa!
Hôm nay tôi xin gửi tới quý vị sự trình bày về “Tứ tất đàn” – nguồn gốc của các pháp môn phương tiện trong đạo Phật, hay còn gọi là đạo Phật pháp môn.
Thưa quý vị, Diệt ngã, xả ngã là vấn đề cốt lõi trong kho tàng Phật giáo. Hiểu rõ, thực chứng rốt ráo chân lý vô ngã là thành tựu Bồ đề Niết bàn vô thượng (Bất kiến nhất pháp tức Như Lai ...)
Quán sát vũ trụ nhân sinh, đức Thế tôn dạy: "Tất cả pháp vô ngã".
Nghĩa là toàn bộ "hữu tình chúng sinh" và "vô tình chúng sinh" đều vô ngã qua cái thấy của Phật nhãn. Nói cách khác, qua nhận thức của Phật loài động vật cũng như thực vật, khoáng vật đều không có tính tự ngã, tự sinh, tự tồn, tự độc lập, bất biến và bất động. Tuy nhiên, ở các kinh điển thỉnh thoảng đó đây đức Phật có lúc vẫn đề cập về ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả tướng... Ðó là Như Lai vận dụng "thế giới tất đàn" trong “tứ tất đàn”, vận dụng "tục đế" (khái niệm) trong "nhị đế" (Nhị đế bao gồm Tục đế và Chân đế: sự thật tuyệt đối) mở bày phương tiện trong cứu cánh đấy thôi! Cuối cùng Như Lai chỉ bày những giáo lý phương tiện chỉ là phương tiện, người Ðại thừa chủng tính phải tu học giáo lý đệ nhất nghĩa, cứu cánh Ðại thừa.
“Tứ Tất Đàn”, tiếng Phạn là catvari siddhanta; catvari có nghĩa là “tứ”, và siddhanta phiên âm là “Tất đàn”, có khi còn được phiên âm là “Tất Đàm”, và dịch là “Tác Thành Tựu”, có nghĩa là làm cho công việc thuyết pháp của Đức Phật được thành tựu. Chữ siddhanta, Hán dịch là "thành tựu", nghĩa là nhờ dựa vào bốn phương pháp này, mà Đức Phật thuyết pháp và thành tựu được sự nghiệp hoằng hóa, giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh từ mê lầm đến giác ngộ, từ sinh tử đến Niết Bàn, từ phàm lên Thánh, từ mê lầm đến sự hiểu biết cao thượng.
Nội dung của “Tứ tất đàn” gồm có:
1. Thế giới tất đàn
“Thế giới tất đàn” có nghĩa là thành tựu đối với thế gian. Đức Phật có cái nhìn thành tựu về thế gian và cái nhìn chính xác về các pháp thế gian, nên Ngài có thể chuyển hóa, đưa các chúng sinh đang sống trong thế gian đi về với Phật đạo, đi về với sự giác ngộ.
Đức Phật ứng dụng Pháp này vào trong thế gian, tức là tùy thuận theo các pháp của thế gian để giảng dạy giáo pháp do tự thân Ngài chứng ngộ. Chẳng hạn, thế gian là vô thường thì Ngài nói là vô thường, và Ngài đã sử dụng những ngôn ngữ của thế gian để diễn tả những tính chất vô thường ấy của các pháp thuộc về thế gian như là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, như là khổ đế, tập đế v.v. Chính những pháp này gọi là pháp thế gian.
Đức Phật đã thành tựu khi diễn giảng giáo pháp này đến cho những người trong thế gian hiểu, để từ đó họ chuyển cái tâm mê lầm của họ thành tâm giác ngộ, tâm phàm phu thành tâm bậc Thánh, tâm chúng sinh thành ra tâm Phật. Chuyển hóa được như vậy là nhờ đức Phật đã sử dụng “Thế giới tất đàn”.
Và sau khi chuyển hóa như vậy, tùy thuận để thuyết pháp như vậy, Đức Phật đã đưa họ về với Đệ nhất nghĩa đế tức là chân lý rốt ráo.
Đức Phật nói mười hai xứ hay mười tám giới là pháp thuộc về thế gian. Mười hai xứ là gì? Đó là sáu căn và sáu trần. Sáu căn gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các căn này không tự thân hiện hữu mà hiện hữu do quan hệ nhân duyên. Cái gì do quan hệ nhân duyên mà có, cái đó là vô thường.
Như vậy, Đức Phật đã dùng con mắt thế gian để nhìn thế gian và nói chuyện thế gian cho thế gian; Đức Phật đã sử dụng lỗ tai của thế gian để nghe và nói sự thật của thế gian cho thế gian; Đức Phật đã dùng lỗ mũi của thế gian để ngửi và nói lên sự thật cho thế gian; Đức Phật đã dùng ngôn ngữ, thiệt căn để tiếp xúc với thế gian và nói rõ sự thật của thế gian cho thế gian; Đức Phật đã dùng
cái thân hình năm uẩn này để tiếp xúc với thế gian và nói rõ sự thật cho thế gian; Đức Phật đã dùng ý căn thuộc về thế gian để tiếp xúc các pháp của thế gian và nói rõ sự thật của thế gian cho thế gian. Vì vậy mà gọi là Thế gian tất đàn, tức là thành tựu về mặt thế gian.
Đức Phật đã nhìn sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, Ngài thấy từ bản chất cho đến hiện tượng của chúng một cách như thực và Ngài nói sự thực đó cho chúng sinh trong thế gian và chúng sinh trong thế gian lĩnh hội được những gì do Ngài trình bày, nên gọi là “Thế gian tất đàn”.
Ở trong Pháp Tứ diệu đế, Đức Phật nói: đây là “Khổ thánh đế”; đây là “Tập thánh đế”. Đây là “Khổ thánh đế”; đây là “Tập thánh đế”, đó là pháp thế gian. Đức Phật nói "đây là Khổ thánh đế" mà thế gian nhận ra được; "đây là Tập thánh đế" mà thế gian nhận ra được và đoạn trừ được “tập đế” để xa lìa “khổ đế”. Với cách thuyết pháp như vậy, đức Phật đã thành tựu về “Thế giới tất đàn”.
Và chính nơi những pháp thế gian này, Đức Phật lại chỉ rõ nhân duyên sinh khởi và bản thể không sinh không diệt của mỗi pháp, khiến cho những người trong thế gian khi nghe Phật pháp liền sinh được chính kiến, liền sinh khởi được chính trí và sinh ra hỷ lạc, sinh ra niềm vui lớn và khởi tâm tu tập, đoạn trừ các phiền não; sinh ra đời sống giải thoát ngay ở trong thế gian này, ngay trong thế giới này.
2. Vị nhân tất đàn
“Vị nhân tất đàn” nghĩa là sự thuyết pháp, hoằng pháp, làm việc đạo thành tựu đối với từng người, đối với từng đối tượng. Việc thuyết pháp đó là vì con người mà nói, vì con người mà diễn giảng chánh pháp, vì con người mà làm việc đạo.
Muốn vì con người mà làm việc đạo để giúp cho họ được thành công thì phải hiểu tâm lý của họ, phải hiểu rõ hoàn cảnh của họ, phải hiểu rõ nghiệp báo, nhân duyên, nhân quả của họ để chuyển vận bánh xe chính pháp giúp họ, giúp họ tiến bộ, xả bỏ được khổ đau trong đời sống để đi tới với đời sống hạnh phúc; giúp họ giải thoát khỏi những trói buộc để đi đến với đời sống tự do đích thực; giúp họ thoát khỏi sự chậm tiến, đi tới với đời sống tiến bộ, văn minh.
Do đó, “Vị nhân tất đàn” nghĩa là khi mình thuyết pháp cho ai, thì phải hiểu được người đó, hiểu được tâm lý, trình độ của họ, phải hiểu được nhân duyên hoàn cảnh họ đang sống, thì mình mới giúp họ thoát khỏi được tình trạng của họ.
Ngày xưa, Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa thành tựu là do Ngài trình bày Pháp một cách thực tiễn và phù hợp với từng căn cơ, hoàn cảnh của từng người. Đối với người có căn cơ thấp, Ngài dạy giáo lý vừa phải cho họ để họ có thể thực tập được giáo pháp của Ngài ngay trong điều kiện của mình. Đối với người có căn cơ cao thì Ngài cũng trình bày giáo lý theo căn cơ của họ và phù hợp với điều kiện thực tập của họ. Có những người căn cơ cao, nhưng điều kiện thực tập không có, hoàn cảnh không thuận lợi, Ngài cũng biết rõ để giúp, để chỉ cho họ cách hành trì Pháp hiệu quả. Như vậy gọi là “Vị nhân tất đàn”.
Ngày xưa, Đức Phật đã từng giáo hóa những nhà ngoại đạo, giúp họ trở về với Phật. Thậm chí, các giáo chủ tôn giáo khác cũng được Đức Phật giáo hóa, chẳng hạn như ba anh em ngài Ca Diếp, đều là giáo chủ của đạo thờ Thần Lửa, đều có đông đảo quần chúng. Khi đã giáo hóa được Ngài Đại Ca Diếp, nhưng còn hai người em của Ngài vẫn đang còn đi theo tà kiến, nên Đức Phật biết rất rõ những khó khăn mà Ngài Đại Ca Diếp sẽ gặp phải khi đi theo mình. Biết được như vậy, nên Đức Phật đã có cách hỗ trợ, giúp đỡ, giáo hóa thích hợp khiến cho Ngài Đại Ca Diếp quay về được với Phật Pháp mà không bị một trở ngại nào. Sự giáo hóa thành công của Đức Phật đối với ba anh em Đại Ca Diếp là do Đức Phật đã sử dụng pháp “Vị nhân tất đàn”.
3. Đối trị tất đàn
Đối trị có nghĩa là trị liệu, chuyển hóa. “Đối trị tất đàn” có nghĩa là chuyển hóa thành tựu hay đối trị thành tựu. Pháp Đức Phật dạy nhắm tới chuyển hóa những phiền não nơi tâm chúng sinh. Mọi phương pháp mà Đức Phật dạy, Ngài nói bằng cách này hay bằng cách khác, Ngài nói cao, nói thấp; Ngài nói rộng, nói hẹp; Ngài nói một cách tha thiết hay nói một cách khắc khổ, hay nói một cách sâu sắc, tất cả là nhằm mục đích làm cho người nghe, nghe hiểu, thực hành được và chuyển hóa những phiền não ở nơi tâm họ.
Ví dụ, đối với những chúng sinh nặng về tham dục, thì Ngài nói về những nguy hiểm của các dục đem lại. Nhưng, muốn nói được sự nguy hiểm do các dục đem lại, thì trước hết, Đức Phật vẫn nói về vị ngọt hấp dẫn của thế gian. Nếu nói rằng "danh không có sự hấp dẫn", thế gian sẽ không tin.
Cho nên, Đức Phật nói các danh tướng của thế gian vẫn có vị ngọt, vẫn có sự hấp dẫn của nó, nhưng người đời chỉ thấy được sự hấp dẫn, thấy được vị ngọt mà không thấy được nguy hiểm của nó. Do đó, đằng sau vị ngọt của các dục thế gian là cả một sự đắng cay, nguy hiểm. Cũng giống như con cá chỉ thấy được miếng mồi mà không thấy được lưỡi câu ở trong miếng mồi. Mình nói với cá rằng "cá ơi, đừng ăn miếng mồi mà mắc lưỡi câu" thì chắc chắn cá sẽ không nghe, vì nó chỉ thấy được miếng mồi là vị ngọt. Nhưng, người có trí sẽ thấy được đằng sau miếng mồi là lưỡi câu. Cũng vậy, các dục thế gian có sự hấp dẫn, có sự lôi kéo, có sự cuốn hút vì nó có vị ngọt. Nhưng thế gian không hiểu rõ, sau vị ngọt đó là lưỡi câu, là sự nguy hiểm, là hạnh phúc tan nát, nên Đức Phật nói các dục thế gian có vị ngọt, nhưng Ngài còn nói, sau vị ngọt đó là sự nguy hiểm. Nguy hiểm đó là gì? Đó là các dục thế gian đều dẫn tới sinh, già, bệnh, chết và bất như ý, cho nên các dục thế gian không bao giờ đáp ứng được nhu cầu của con người, tham dục của con người. Cho nên, Đức Phật nói tham dục là nguy hiểm, ly dục là để đối trị và chuyển hóa tính tham dục ở trong con người.
Vì vậy, “Đối trị tất đàn” còn gọi là “Đoạn ác tất đàn”, nghĩa là “Đối trị tất đàn” giúp cho chúng sinh đoạn trừ tất cả những ác kiến, những nhận thức sai lầm dẫn tới những việc làm ác; giúp cho chúng sinh đoạn trừ những phiền não chấm dứt khổ đau. Nói một cách đúng với Phật học chuyên môn, Đối trị tất đàn giúp cho người thực tập đoạn trừ phiền não chướng, là những chướng ngại thuộc về phiền não ở nơi tâm, để có tâm giải thoát, tâm an vui; đoạn trừ sở tri chướng, là những chướng ngại đối với sở tri, đối với sự giác ngộ để có tuệ giác toàn bộ.
Chốt lại, “Đối trị tất đàn” có tác dụng đoạn trừ hai mặt, mặt phiền não chướng ở nơi tâm và sở tri chướng là những chướng ngại đối với trí tuệ, để có được tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Một người có tâm giải thoát, có tuệ giải thoát, thì ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì cho bất cứ ai, cũng đều thành tựu.
Đó là “Đối trị tất đàn”.
“Đối trị tất đàn” là phương pháp trị liệu, là dược liệu trị bệnh chúng sinh. Do Pháp này mà thế gian nhìn Đức Phật như là một vị Y Vương, là vị vua trong ngành y học, biết tùy bệnh cho thuốc. Pháp của Phật trình bày giống như lương dược, là diệu dược mà tùy theo bệnh trạng, thực hành Pháp đó sẽ được chuyển hóa, đưa lại sự an lạc của thân và tâm.
Đối với những chúng sinh đầy sân hận, Đức Phật dạy cho họ pháp từ bi, thực hành tâm từ bi, thương người như thể thương thân. Mình thương người khác chính là mình đang thương thân thể mình. Mình thương cuộc đời cũng chính là đang thương mình. Mình giận người khác, là mình đang gây thiệt hại cho chính mình. Khi mình làm cho ai khổ đau, thì bản thân mình khổ đau trước người đó. Đọc trong các kinh, chúng ta sẽ thấy Đức Phật nói rất nhiều ví dụ về điểm này. Chẳng hạn, mình có tâm sân hận muốn hại người khác, thì trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật nói "nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn phấn kỷ thân. Ngưỡng diện thóa thiên, thóa bất chí thiên hoàn tùng kỷ đọa", nghĩa là người ác mà hại người lành, thì giống như người đi ngược gió rê bụi, bụi không tới người kia mà lại vướng vào nơi mình. Kẻ ác mà hại người hiền thiện, người đạo đức, cũng như người giận trời, ngửa mặt nhổ nước miếng lên trời, nước miếng không thấu trời mà rơi lại nơi mặt mình. Do đó, người ác mà hại người lành; người kém đạo đức ganh tị với người đạo đức; người không có tài năng ganh tị với người có tài năng, thì chỉ gây thiệt hại cho chính mình mà thôi. Người nghe hiểu được như vậy, họ sẽ bỏ tâm ganh tị đi, bỏ tâm giận hờn đi, bỏ tâm trách móc vì ganh tị. Giận hờn, trách móc đều gây thiệt hại cho tâm mình, cho đời sống của mình nhiều hơn cho đối tượng mà mình ganh tị. Nhờ vậy, người đó thành tựu được tâm an lạc, tâm giải thoát, tâm cao quý. Đó gọi là pháp “Đối trị tất đàn”.
Đối với những người ngu si, vô trí, tà kiến, cho rằng thế giới này do thần linh tạo nên, do một thần minh tạo nên, do một thượng đế tạo nên, thì Đức Phật không bác bỏ trực tiếp cái đó, mà Ngài nói về giáo lý duyên khởi. Nghĩa là mọi sự hiện hữu giữa thế gian này, không có cái gì hiện hữu đơn thuần mà có thể tồn tại, mà mọi thứ chỉ có thể tồn tại trong quan hệ nhân duyên. Nếu mình quán chiếu nhân duyên này thật sâu sắc, thì niềm tin đối với một thượng đế, một thần linh, một nhất thần giáo sẽ tự động rơi rụng đi, chứ Ngài không hề tấn công bất cứ một thượng đế hay thần linh nào cả. Ngài chỉ bật ngọn đèn cho người khác thấy. Khi họ đã thấy, họ sẽ tự thay đổi tâm của chính họ, thay đổi cái nhìn của chính họ, thay đổi niềm tin của họ. Họ tự thay đổi và tự hoàn thiện niềm tin của họ, đó mới là điều quan trọng. Họ tự thay đổi, tự hoàn chỉnh nhận thức, hiểu biết của họ, đó mới là điều quan trọng. Khi một người nhận ra được và tự hoàn chỉnh niềm tin của mình, thì ngay nơi sự hoàn chỉnh đó, họ có hạnh phúc, an lạc. Khi một người có được ánh sáng soi rọi vào và tự hoàn chỉnh hiểu biết của mình, thì ngay nơi sự hoàn chỉnh đó, họ có an lạc hạnh phúc, có cơ sở vững chãi để tiến lên những mức độ cao hơn, hiểu biết cao hơn, đời sống cao hơn. Đó chính là tác dụng của “Đối trị tất đàn”.
Nói một cách khác, chúng sinh có bao nhiêu phiền não, thì Phật có bấy nhiêu pháp môn, bấy nhiêu phương tiện để chuyển hóa phiền não cho chúng sinh. Cho nên chúng sinh có vô lượng phiền não, thì Phật Pháp có vô biên pháp môn tu tập để chuyển hóa. Khi nhận ra được điều này rồi, thì người Phật tử chúng ta không còn tu tập một cách cực đoan và cục bộ, không còn bị mắc kẹt bởi trường phái này hay trường phái kia, mà thấy được rằng, trường phái nào cũng là những khía cạnh của Phật pháp. Chúng ta đến với đạo Phật, chứ chúng ta không đến với trường phái này hay trường phái nọ, với pháp môn này hay pháp môn kia. Nếu chúng ta đến với bất kỳ một trường phái nào, là chúng ta đánh mất đạo Phật toàn thể. Đến với đạo Phật mà bị kẹt vào một khía cạnh, một trường phái, một pháp môn, thì đó là một sự mất mát thiệt hại cho ta. Đặc biệt trong thời đại của chúng ta, quý vị phải lưu ý điểm này.
4. Đệ nhất nghĩa tất đàn
“Đệ nhất nghĩa tất đàn” tức là sự thành tựu tối thượng. Đó là sự thành tựu tuyệt đối. Đó là mục đích hoằng Pháp của Đức Phật. Nên Đức Phật thuyết pháp bằng “Thế giới tất đàn”, bằng “Vị nhân tất đàn”, bằng “Đối trị tất đàn”, với mục tiêu cuối cùng là để hiển thị “Đệ nhất nghĩa tất đàn”. Nghĩa là Đức Phật thuận theo thế gian để làm gì, thuận theo từng người để thuyết pháp, nhằm mục đích gì, đối trị với từng căn bệnh phiền não, sở tri của từng người để làm gì? Để đưa họ đi về với Đệ nhất nghĩa tất đàn, tức là cuối cùng sẽ hiển thị cho họ thấy được chân lý tuyệt đối.
Chân lý tuyệt đối mà Đức Phật giảng cho mọi người, nói cho mọi chúng sinh là gì? Đó là "tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật". Muốn thành Phật thì phải chứng nhập Phật tính. Muốn chứng nhập Phật tính thì phải từ nơi tâm bồ đề hay từ nơi bản giác mà phát khởi đại nguyện lợi hành, giáo hóa hết thảy chúng sinh bằng phương pháp này hay phương pháp khác. Giáo hóa nhưng không mắc kẹt vào nơi phương pháp giáo hóa, nơi hình thức giáo hóa, khiến cho chúng sinh được giáo hóa đi tới được với chân lý tuyệt đối, với hạnh phúc an lạc. Đó là “Đệ nhất nghĩa đế tất đàn”.
Do đó, trong Luận đại trí độ, ngài Long Thọ nói "trong ‘Tứ tất đàn’ thâu nhiếp hết thảy mười hai thể loại kinh và tám vạn bốn ngàn pháp tạng" đều là thực mà không có gì mâu thuẫn nhau. Trong Phật Pháp hết thảy đều là thực, có pháp thực vì theo nghĩa của “Thế giới tất đàn”; có pháp thực vì theo nghĩa của các “vị nhân tất đàn”; có pháp thực vì theo nghĩa của “Đối trị tất đàn”, và có pháp thực vì theo nghĩa của “Đệ nhất nghĩa đế tất đàn”.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Như Lai nói: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tức không phải ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả mà gọi là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả vậy thôi!
“Ngã” của thế gian do ức thuyết, do tưởng tượng, do mê tín dị đoan. Không ai chứng minh được cái gì là “Ngã”.
Tóm lại, Phật giáo nói “Ngã”, khi sử dụng phương tiện tùy thế tục vận dụng thế đế, để rồi cuối cùng phủ định “Ngã”, khi con người có khả năng nhận thức chân lý vô ngã. Thế gian nói “ngã” chỉ vì ức thuyết, do tưởng tượng hoang đường, do si mê cuồng tín...
Để hiểu rõ hơn, thấu triệt hơn về “Ngã” và “Vô ngã”, người tu học Phật pháp cần phải học tập thành tựu về Duy thức học đối với Phật giáo Đại thừa và “Vi diệu pháp” đối với Phật giáo Nguyên thủy. Nhưng theo tôi chân lý của Phật pháp không phân biệt “thừa”, nên vì vậy người học Phật cần phải học tập nghiên cứu, tư duy quán chiếu tất cả các môn triết học Phật giáo để có một cái nhìn chính tri kiến.
Nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy ngay trong “Thế giới tất đàn” có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”, ngay trong “Vị nhân tất đàn” có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”, ngay trong “Đối trị tất đàn” có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”. Đây là điều các quý vị cần lưu ý khi trình bày và thực hành giáo lý “Tứ tất đàn”, nghĩa là mục đích không rời phương tiện; phương tiện phải được bảo chứng để đi tới mục đích. Tức là chúng ta tùy duyên mà bất biến; bất biến ngay nơi cái tùy duyên của mình, chứ tùy duyên và bất biến không phải là hai cái tách rời nhau. Tùy duyên phải bảo chứng được cho nội dung bất biến; bất biến phải bảo chứng để tùy duyên đi tới. Bất biến phải là lực hút để hút tùy duyên đi tới mà không bị chệch hướng và tùy duyên phải hàm chứa nội dung bất biến. Khi học “Tứ tất đàn” rồi, chúng ta mới có thể ứng dụng được giáo lý của Phật vào trong đời sống xã hội.
Trong “Tứ tất đàn”, thì “Thế giới tất đàn” hay “Thế gian tất đàn”, “Vị nhân tất đàn”, “Đối trị tất đàn” thuộc về tùy duyên ở trong đạo Phật, tùy duyên hành đạo, tùy duyên hoằng Pháp ở trong đạo Phật; còn “Đệ nhất nghĩa tất đàn” là cứu cánh, là mục đích của đạo Phật.
Tùy duyên là để đạt mục đích, chứ tùy duyên mà không đạt được mục đích của mình thì tùy duyên sẽ trở thành tùy tiện, như vậy sẽ đi chệch hướng của đạo Phật, đi chệch hướng với lý tưởng của mình.
Do đó, chúng ta phải nắm cho được cái tùy duyên bất biến và bất biến tùy duyên ở trong đạo Phật.
Ngày nay, người ta lạm dụng cái tùy duyên bất biến này hơi nhiều. Một người đã thực sự lên đến đỉnh núi rồi, đã thực sự ngồi trên đỉnh núi tuệ giác rồi, người ấy quán chiếu thấy được căn cơ của chúng sinh như thế nào rồi, mới bắt đầu xuống núi để tùy duyên giáo hóa. Còn chúng ta, phần nhiều là những người đang còn leo núi, chưa lên đến đỉnh mà chúng ta tùy duyên, thì nghe người này nói leo đường này thì mình cũng leo đường này; nghe người kia nói đi đường kia mới tới, mình liền chạy qua đường đó; rồi lại có người nói có con đường khác nhanh hơn nữa, mình liền bỏ đường cũ, leo theo con đường người đó nói. Cuối cùng, vì tùy duyên nên mình đi loanh quanh. Loanh quanh hoài, nên chẳng bao giờ đạt tới được mục đích của mình. Cũng như Trịnh Công Sơn nói "đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt". Cho nên thế gian là pháp loanh quanh. Chỉ có khi nào, ta có Phật Pháp, có chính đạo mới có trực đạo đi thẳng.
Quý vị phải biết rằng, trong “Thế gian tất đàn” có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”, nên nói theo thế gian mà không sai với chính nghĩa; nói thuận theo với thế gian mà không sai với Niết bàn; ở trong sinh tử mà không sai với Niết bàn giải thoát.
Cũng vậy, trong “Vị nhân tất đàn” có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”, trong “Đối trị tất đàn” có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”.
Chúng ta phải tùy căn cơ, tùy từng hoàn cảnh của con người, từng hoàn cảnh xã hội mà giáo hóa, chúng ta tùy thuận mà không tùy thuộc. Vì sao? Vì trong “Đối trị tất đàn”, trong “Vị nhân tất đàn”, trong “Thế gian tất đàn”, mỗi cái đều có “Đệ nhất nghĩa tất đàn”. Cho nên, trong cái tùy duyên có tính chất bất biến bên trong.
Đây là điều mà quý vị cần phải học tập, chiêm nghiệm để có thể hành đạo được ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.
Ngày nay người học Phật vì một lý do nào đó mà không hiểu rõ được căn nguyên, nguồn gốc của các pháp môn phương tiện trong đạo Phật và vì vậy mà khi tu tập đã bị kẹt cứng ngắc vào trong pháp môn nên đã dẫn đến tình trạng chê bai lẫn nhau giữa các tông phái, pháp môn khác nhau. Tệ hơn nữa, nhiều người do không tu học đến nơi đến chốn nên bị kẹt vào cái sở tri chướng của mình mà hướng dẫn, truyền bá những hệ tư tưởng sai lầm, mê tín dị đoan, hoang đường ảo tưởng và tà kiến. Vì mải mê chấp mắc vào “thế gian tất đàn”, “vị nhân tất đàn” và “đối trị tất đàn” do vô tình hay cố ý mà quên đi “đệ nhất nghĩa tất đàn”. Ví dụ như, nói có Địa ngục trong lòng đất, có thế giới ngã quỷ, có trời, rồng, dạ xoa, la sát, có long vương và các vị thần tiên, quỷ thần, thiên long bát bộ, chết sinh thế giới Tây phương cách cõi Ta bà này mười muôn ức cõi Phật (mười muôn ức cõi Phật là bao xa? Bao nhiêu ki-lô-mét hay bao nhiêu năm ánh sáng?), tệ hại hơn có vị còn nói ăn con gì chết đầu thai thành con đó.
Chính vì sự hoằng pháp sai lầm, thiếu sót, không rốt ráo vì bỏ quên “đệ nhất nghĩa tất đàn” này mà sinh ra biết bao tranh cãi, thị phi, hơn thua và tà kiến, tà tín trong thế giới Phật giáo ngày nay.
Quý vị đã từng nghe câu chuyện người mù rờ voi. Có mấy người mù rờ voi, người rờ được cái đuôi thì họ nói con voi giống cái chổi; người rờ được cái chân thì nói con voi giống cái chày; người rờ được lỗ tai, thì nói con voi giống cái quạt. Người rờ cái đuôi và nói rằng, con voi giống cái chổi, người ấy nói không sai, nhưng lại không phải đúng hoàn toàn. Người ấy chấp một bộ phận con voi thành toàn thể. Chỉ có người mắt sáng mới biết tất cả những gì người mù ấy nói không sai, nhưng cũng không đúng, vì người mù đã chấp một bộ phận của con voi là toàn thể con voi. Sai là sai ở chỗ đó. Mặc dù người mù có xúc chạm con voi, bằng chính bản thân họ, nhưng vì xúc chạm bằng đôi mắt mù lòa, nên vẫn không thấy được thực tại của voi là gì.
Phật tử chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta tu học mà không có tuệ giác, chúng ta kẹt vào từng pháp môn, từng đối tượng, từng trường phái của mình là mình chưa có sự toàn giác, chưa đi đúng hướng của Phật pháp. Vì vậy mà trong Phật giáo chia bè, chia nhóm. Nhóm này nói xấu nhóm kia, nhóm kia tấn công nhóm này. Cuối cùng là thân thể của Phật Pháp, thân thể đạo Phật bị phanh, bị xẻ, mà không ai khác hơn, chính là "sư tử trùng trung, thực sư tử nhục". Đó là điều mà quý vị khi học pháp “Tứ tất đàn” này phải nhận ra cho rõ, để mình có được con đường vững chãi mà tu học, phụng sự chính pháp, phụng sự dân tộc và nhân loại.
04/05/2016
Sa môn Thích Trí Nguyện