;
Ngoài Phật tử của chùa Phước Thành, còn có sự tham dự một số ở các quận huyện khác, tổng cộng 75 vị. Đoàn đến chùa Phước Huệ, Bảo Lộc đầu tiên, cúng dường và thọ trai tại đó, 14 giờ, cúng dường chùa Vĩnh Minh Đại Ninh, do Đại đức Nguyên Hiền thừa kế cố Hòa thượng Thích Tâm Thanh trụ trì. Nơi đây, tượng Phật Di Đà cao 32m, giữa núi rừng tĩnh lặng.
Mặt tiền chùa Vĩnh Minh
Tôn tượng Đức Phật A Di Đà tại chùa Vĩnh Minh
Ngày hôm sau, cúng dường và dùng sáng tại chùa Lộc Uyển của sư cô Thích nữ Minh Liên, thăm viếng Thiền viện Trúc Lâm, chùa Linh Phước, độ ngọ và cúng dường tại chùa Phước Huệ của Ni sư Thích nữ Như Phú (thầy Sc Minh Liên).
Ngày thứ ba, đoàn được thầy trưởng đoàn thiết đãi ăn sáng tại vườn hoa Đà Lạt nằm cạnh hồ Xuân Hương, khá thơ mộng; trên đường về cúng dường chùa Linh Thắng ở Di Linh, do HT.Thích Toàn Đức, trưởng BTSPG Lâm Đồng tọa chủ; đoàn dùng trưa và cúng dường chùa Đại Giác ở Đại Lào.
Chùa Phước Huệ
Trong ba ngày, khí hậu Đà Lạt mát lạnh và mưa phùn, thích hợp cho khách lãng du, cũng là điều kiện cho đại chúng trong mùa an cư được mát mẽ. Không khí thiền môn an tịnh, trang nghiêm của các đạo tràng tỏa nét thiền vị truyền thống an cư. Đa phần các chùa đều cách biệt khu dân cư nên giữ được sự thanh tịnh cần có.
Mặc dù, theo thầy trưởng đoàn, đây là chuyến tổ chức hành hương và cúng dường trường hạ đầu tiên chưa có kinh nghiệm, nhưng trong ba ngày chung sống, mọi người đều mãn nguyện và quý phục tính hòa đồng, vui vẻ của thầy, mọi sự đều chu đáo. Thành phố Đà Lạt có ba điểm an cư cho chư Tăng và ba điểm cho chư Ni, ngoài ra một số chùa tùng hạ hoặc cấm túc tại chỗ.Sinh hoạt và kiến trúc thiền môn tại Lâm Đồng giữ được nét truyền thống của Miền trung Cao nguyên là xứ sở của dân miền Trung lưu lạc trước và trong thời nhà Ngô trị vì, phần lớn là người Thừa Thiên Huế, Quảng Nam. Niềm tin Phật giáo ăn sâu vào máu thịt. Người miền Trung đi đến đâu là lập chùa, niệm Phật đường, khuôn hội đến đó. Các chùa trên cao nguyên vừa giữ được nét kiến trúc truyền thống, vừa giữ được nếp sinh hoạt thiền vị, an hòa, trầm lắng. Vì thế, an cư tại cao nguyên có lẽ dễ chịu nhờ khí hậu và tính truyền thừa môn phong còn lưu lại.
Tại chùa Lộc Uyển.
Tuy là thành phố du lịch, Đà Lạt không xô bồ ồn ào; nét đẹp núi rừng vẫn còn dáng dấp thơ mộng, chùa chiền góp phần không nhỏ tô vẽ nếp văn hóa của cư dân địa phương. An cư kiết hạ là một trong những nếp văn hóa góp phần không nhỏ trong đời sống tâm linh của Thành phố u uẩn và mộng mơ.
An cư Kiết hạ
An cư là truyền thống lưu tồn của Bà La Môn giáo, trước thời Phật còn tại thế.
Theo Tứ Phần Luật San Bổ Tuỳ Cơ Yết Ma số 4, giải thích nghiã An Cư như sau: thân tâm đều tĩnh lặng gọi là an, qui định thời gian ở một chỗ gọi là cư.
Nguyên nhân cho việc an cư.
Theo Tứ phần luật 37, An cư ký đệ (Đại 22, tr.630b) nhân duyên Phật chế định An cư là do có một số tỳ kheo, nhất là nhóm 6 tỳ kheo du hành trong mùa mưa, khiến dân chúng than phiền: “Các sa môn Thích tử du hành trong mùa lạnh, mùa nóng và cả trong mùa mưa. Ngay cả các du sĩ ngoại đạo hằng năm vẫn có 3 tháng ở cố định trong mùa mưa, những con chim sau khi làm tổ trên ngọn cây cũng sống cố định trong mùa mưa. Còn các sa môn Thích tử lại du hành trong mùa mưa, các vị ấy đã giẫm đạp lên cỏ xanh, đang làm hại mạng sống của các loài côn trùng”. Do sự than phiền của quần chúng, Đức Phật khuyến giáo cho chư Tăng phải có ba tháng an cư vào mùa mưa. Ngoài vấn đề tránh dẫm đạp côn trùng sanh sôi nẩy nở, thể hiện lòng từ, còn có ý nghĩa các tỳ kheo phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nhau,
Tăng đoàn thanh tịnh hoà hợp là mạng mạch Phật pháp, là linh hồn, là sức sống của chính pháp. Vì vậy, ngoài sự tu học Tam vô lậu học, tinh thần lục hoà cộng trụ phải được xây dựng, củng cố và phát huy trong 3 tháng an cư.
Chư Tăng nhờ ở yên một chỗ thúc liễm thân tâm, trau giồi Giới-đinh-tuệ nên sau 3 tháng an cư nhiều vị chứng đắc thánh quả từ sơ quả Tu Đà Hoàn đến quả vị A-La-Hán, và cư sĩ tại gia cũng có người chứng đến quả vị A-Na-Hàm.
Các qui định về an cư.
Theo luật Thập Tụng 28: năm chúng xuất gia là: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa di, Sa di Ni đều phải an cư. Theo Luật thì Tỳ kheo và Sa di an cư cùng một chỗ, Tỳ kheo Ni, Thức-xoa-ma-ni, và Sadi Ni an cư tu hành cùng một chỗ. Và Đại phẩm Nhập Vũ An Cư Kiền độ trong luật tạng Pali qui định: Tỳ kheo không an cư thì phạm tội ác tác (Đột kiết la –Pali: Dukkata còn dịch phá an cư).
Theo Kiền độ An cư, trong luật tứ phần 37 qui định về những nơi có thể an cư như sau: an cư dưới cội cây, trong thất nhỏ, trong hang núi, bọng cây, trên thuyền, nơi xóm làng, hoặc có thể nương theo người chăn trâu, người đốn củi…Trong Luật Ngũ Phần nói về Pháp An cư đã qui định những nơi bị cấm: an cư ở nơi không có người cứu hộ, giữa gò mã, nơi cây không có tàng, nhà lợp bằng da thú, chỗ đất trống.
Thời gian an cư kiết hạ: Bắc Tông từ 16 tháng tư đến 15 tháng 7 âm lịch. Nam Tông từ ngày 16 tháng 6 âm lịch, cho đến ngày 15 tháng 9 âm lịch.Khất sĩ an cư theo lịch Bắc truyền.
Truyền thống an cư và ý nghĩa an cư như thế, Việt Nam đã duy trì từ xưa nay, nhưng có một số vấn đề tùy thuộc về xã hội và thời thế, việc an cư chưa đạt được hiệu quả như thời Phật tại thế, việc thúc liễm thân tâm và sở đắc cũng còn giới hạn. Vùng Cao nguyên và miền Trung, chư Tăng an cư khá nghiêm túc, nề nếp và thanh tịnh.Ở Việt Nam ngoài an cư Kiết hạ còn có một vài nơi Kiết Đông. Nước ngoài kiết Đông có truyền thống Làng Mai và một vài nơi cá biệt.
23/6/2015