Dù
chỉ là 1 trong 24 “tiết khí” của Trời/Đất – tiết lập Xuân, nhưng đây là
dịp người ta phải chuẩn bị đầy đủ nhất, chu đáo nhất để nghênh đón thời
điểm quan trọng này – TẾT NGUYÊN ĐÁN. Mặc dù chỉ chính thức diễn ra
trong 3 ngày: mồng một Tết, mồng hai Tết và mồng ba Tết, nhưng không khí
và dư âm của nó đã kéo dài trước và sau đó khá lâu, ít nhất là trong 2
tuần: từ 23 tháng Chạp đến ngày mồng 7 Tết. Còn với người dân Trung Quốc
– theo Bách khoa tự điển Trung Quốc - Tết Nguyên Đán thường kéo dài từ
ngày 8 tháng 12 âm lịch đến ngày 15 tháng Giêng âm lịch và cũng là ngày
tết dài nhất, quan trọng nhất của họ.
Có
nhiều lễ thức được thực hiện trong khoảng thời gian này và phần lớn
trong số đó đã trở thành phong tục truyền thống cũng như nét văn hóa đặc
sắc của người Việt Nam. Nhưng trong cuộc sống hiện nay, do nhiều nguyên
nhân, nhiều người trong chúng ta, nhất là giới trẻ, dường như đang lãng
quên cái không khí đầm ấm chỉ riêng có của những ngày TẾT. Vì thế, bài
viết muốn giới thiệu một số phong tục đẹp mà chúng ta cần giữ gìn, để
Tết Nguyên đán mãi là Tết Cả của người Việt Nam:
1. Tục tống cựu nghênh tân:
Tống
cựu nghênh tân nghĩa là bỏ đi những cái cũ và đón cái mới ( tức là bỏ
đi tất cả những điều không may mắn của năm cũ để đón những điều tốt lành
từ năm mới). Vì thế, các thành viên trong gia đình thường cùng nhau dọn
dẹp sạch sẽ nhà cửa, trang trí bàn thờ, rồi cùng làng xóm dọn dẹp đường
sá và các công trình công cộng của làng, xã như đình, chùa…Đối với bà
con làng xóm, dù trong năm cũ có điều gì không vừa ý cũng đều bỏ qua cho
nhau. Và, dù sự bỏ qua đó có thật lòng hay không nhưng mọi người đều
không còn để bụng, không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong
những ngày đầu năm.
2. Mời tổ tiên về ăn Tết
Theo
quan niệm dân gian, mặc dù ông bà, tổ tiên đã mất, nhưng linh hồn vẫn ở
bên cạnh người sống và luôn phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát
đạt. Do đó, những dịp lễ Tết, người ta thường mời ông bà về chung vui
với gia đình. Từ sau ngày Tết ông Công ông Táo (23 tháng Chạp) đến chiều
30 Tết, các gia đình thường ra mộ phần để thỉnh mời ông bà, tổ tiên về
ăn Tết, vui Xuân cùng con cháu. Từ sau bữa cơm tất niên, theo đúng lễ
thức, mỗi ngày người ta đều cúng cơm cho đến hết Tết – sau khi làm lễ
tiễn ông bà (lễ hóa vàng) thì việc thờ cúng gia tiên trong ngày Tết mới
coi là đã hoàn tất. Đây là một trong những phong tục rất đẹp của người
Việt Nam, không chỉ thể hiện sự “hiếu đễ” theo tính thần Nho giáo, mà
còn là một trong những biểu hiện của truyền thống “uống nước nhớ nguồn”
được lưu truyền từ ngàn đời nay. Chỉ hiềm một nỗi, khi kinh tế ngày càng
phát triển, chất lượng đời sống ngày càng cao, thì phong tục này dường
như càng có nguy cơ bị xem nhẹ. Hiện nay, xu hướng đi du lịch (cả trong
nước và nước ngoài) vào dịp Tết đang ngày càng trở nên phổ biến trong
các gia đình, nhất là ở đô thị. Để kịp cho chuyến đi, thường là chỉ
trong ngày mồng Một, họ đã vội vàng làm lễ hóa vàng để “tiễn” các cụ ra
khỏi nhà để “yên tâm” lên đường. Vậy là các cụ vừa về lại đã phải đi
ngay mà chưa kịp hưởng hương vị Tết cùng con cháu. Thật chạnh lòng trong
những trường hợp này!
3. Tục cúng tất niên (cúng Giao thừa trong nhà)
Trước
kia, đến đúng thời khắc giao thừa, cùng với mâm cỗ cúng ngoài sân để
đón các Thiên binh (12 vị Hành khiển), người Việt còn có mâm cỗ đặt lên
bàn thờ gia tiên, rồi tất cả con cháu cùng tề tựu đông đủ để thắp hương
tưởng niệm, khấn vái ông bà, tổ tiên. Thức cúng là mâm cơm với các sản
vật ngày Tết và mâm ngũ quả được bày biện gọn gàng, đẹp mắt trên một
chiếc đĩa to, đặt ở nơi trang trọng ở bàn thờ. Trong một năm, đây là
thời điểm quan trọng nhất, đoàn tụ đầy đủ nhất của gia đình bởi mọi
thành viên trong gia đình, dù có ở xa đến mấy cũng cố gắng về đến nhà để
đón Tết trước thời khắc giao thừa, dù có bận đến mấy cũng dành thời
gian để sắp mâm cơm cúng tất niên. Và hình ảnh cả gia đình ngôi quây
quần bên nhau, bên chiếc bánh chưng còn đang nghi ngút khói vừa vớt ra
khỏi nồi để dâng cúng tổ tiên có lẽ chưa thể phai nhạt trong tâm trí mỗi
người chúng ta khi nhớ về quá khứ, nhất là trong cuộc sống hiện nay,
khi mọi người dường như không còn cả thời gian để nghĩ đến mình, chứ
chưa nói đến việc vì mọi người, bởi vòng xoáy của công việc và bộn bề lo
toan.
4. Tục chúc Tết
Sáng
mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc
trưởng để lễ tổ tiên và chúc Tết ông bà, cha mẹ và các bậc huynh trưởng.
Theo quan niệm, cứ sang năm mới là mỗi người thêm một tuổi, bởi vậy
ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao
niên.
Dân gian ta có câu:
Mồng Một thì ở nhà Cha
Mồng Hai nhà Mẹ, mồng Ba nhà Thầy
Ba
ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán là những ngày trang trọng, vui tươi
nhất của mọi gia đình. Đây cũng là dịp để mọi người có điều kiện thăm
hỏi lẫn nhau: con cháu thăm hỏi cha mẹ, chú bác, ông bà; học trò thăm
hỏi thầy cô; gặp mặt bạn bè chúc tụng... Đó là cách ứng xử hết sức văn
hoá của người Việt Nam..
"Mồng
một là Tết nhà cha": Sáng mồng một Tết, sau khi lễ gia tiên, người con
(hoặc dâu hoặc trưởng) mời cha mẹ ngồi vào hai ghế tựa ở giữa nhà, các
con cháu đứng theo thứ tự ngôi thứ: anh chị trước, các em sau, sau cùng
là các cháu, mọi người đều mừng thọ và tế sống ông bà, cha mẹ bằng hai
lạy và hai vái (người chết thì bốn lạy, bốn vái). "Mồng hai nhà Mẹ":
Sáng mồng hai Tết, cha mẹ dẫn đoàn con cháu về quê ngoại chúc tết. Tuần
tự lễ tưởng niệm tổ tiên, mừng thọ ông bà ngoại theo nghi thức ở nhà
cha, mừng tuổi bà con thân thích bên ngoại và được mừng tuổi lại. Cả hai
gia đình cùng chuyện trò vui vẻ, làm cho tình nghĩa hai gia đình càng
thêm thắm thiết.
"Mồng một là Tết nhà Cha, Mồng hai nhà Mẹ..."
– phong tục này chứng tỏ, ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu, chọn hai
ngày đầu tiên của năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha
mẹ hai gia đình nội, ngoại. Đó là tính thần “lấy chữ hiếu làm đầu” và cũng làm tấm gương để răn dạy con cháu.; "...Mồng ba Tết thầy":
Công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục, công ơn thầy giáo dục tư cách đạo
đức, mở mang trí tuệ cho mình, vì thế "công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy" đều
được nhân dân ta coi trọng.
5. Tục mừng tuổi
Theo
tục lệ xưa, cứ vào sáng mồng Một Tết là con cháu trong nhà lần lượt nói
lời chúc Tết, chúc thọ và tặng quà hoặc một số tiền cho ông bà, cha mẹ
mình; sau đó, con cháu được ông bà, cha mẹ “lì xì” lại một phong bao màu
đỏ, bên trong đựng một ít tiền gọi là lấy hên và mang lại niềm vui
trong ngày đầu năm mới. Tiền mừng tuổi chỉ là tiền xu, tiền hào mang
tính chất tượng trưng, tiền càng lẻ càng tốt bởi quan niệm tiền lẻ thể
hiện sự sinh sôi nảy nở, học tập, làm ăn phát đạt trong năm mới.
Không
chỉ người lớn mừng tuổi con cháu, mà trứơc đây theo cổ truyền, con cháu
phải mừng tuổi ông bà trước. Ý nghĩa của tục lệ này không nằm ở số
tiền đựng trong bao, mà mừng tuổi là lời chúc ông bà, cha mẹ sống lâu
trăm tuổi, chúc con cháu luôn học hành tiến bộ và thành đạt. Những đồng
tiền mừng tuổi đầu năm thường được người nhận trân trọng để dành nhằm
lấy may cho cả năm.
Tiếng
''lì xì'' có gốc là ''lợi thì'' trong tiếng Trung. Trong tiếng Quan
Thoại, tục này được gọi là "hồng bao", trong tiếng Quảng Đông là “lợi
thị” hoặc “lợi sự”. Dù được gọi với tên gọi nào, lì xì cũng mang nghĩa
là tiền hên, tiền may mắn, điều lành, điều tốt…Phong bao lì xì cũng mang
nhiều ý nghĩ tốt đẹp. Phong bao tượng trưng cho sự kín đáo - không muốn
có sự so bì dẫn đến chuyện xích mích, không vui trong ngày tết. Bao lì
xì thường có màu đỏ, vì với người Châu Á nói chung, Việt Nam nói riêng,
màu đỏ là màu đem lại sự sống và may mắn.
Những
năm gần đây, tục mừng tuổi đầu năm đã có những biểu hiện lệch lạc, biến
dạng, làm mai một phần nào ý nghĩa tốt đẹp của nó, bởi thay bằng việc
dùng tiền lẻ, người ta lại dùng những đồng tiền có mệnh giá lớn để mừng
tuổi. Và điều đáng nói là, tiền mừng tuổi cũng không còn đơn thuần thay
cho những lời chúc tốt đẹp vào dịp đầu năm, mà việc mừng tuổi còn bị
“thương mại hóa” khi được sử dụng nhằm phục vụ cho những mục đích, toan
tính cá nhân. Người ta nhân dịp này để “trả nghĩa”, “cảm ơn” sau khi đã
xong một công việc nào đó, chứ không quan tâm đến sự thiêng liêng và ý
nghĩa của tục lệ này. Vì thế, hiểu để giữ gìn những phong tục truyền
thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa vốn có đã tồn tại hàng nghìn năm trong
đời sống tinh thần của người Việt Nam trước một cuộc sống hiện đại, xô
bồ như ngày nay là trách nhiệm của tất cả chúng ta./.