;
Mới vài tuần trước Hội An, Huế, Đà Nẵng nước lên ngập mái nhà chưa kịp rút hết thì giờ nước lại lên và lần này không chỉ từ Quảng Trị tới Hội An nữa mà cả nguyên một dải Nam Trung Bộ cũng đều mênh mông trong biển nước.

Khánh Hòa chìm trong biển nước do mưa lũ kỷ lục - Ảnh Nguyễn Hoài
Sẽ có nhiều người đặt câu hỏi:
Tại sao chỉ mưa vài ngày mà nhà cửa ngập tận nóc? Tại sao lũ ngày xưa không dữ như bây giờ? Và tại sao thủy điện lại luôn được nhắc đến khi xảy ra ngập lụt? Những hình ảnh ngập lụt luôn đi kèm với những hình ảnh xả lũ ào ạt.
Nếu chỉ nhìn một nhân tố riêng lẻ như mưa nhiều, sạt lở đất, thủy điện xả lũ rồi gán nguyên nhân cho một trong số chúng thì sẽ đều là cách nhìn phiến diện.
Để lý giải được nguyên nhân cho những gì đang xảy ra một cách toàn diện đầy đủ ta cần nhìn miền Trung như một hệ thống phức hợp với nhiều yếu tố liên kết với nhau, mỗi yếu tố thay đổi một chút cũng có thể làm cả hệ thống biến dạng.
Chúng ta sẽ đi qua từng tầng, từng nguyên nhân từ thiên nhiên, con người đến hạ tầng để thấy lũ lụt miền Trung không phải đơn thuần là chuyện “thiên tai” mà còn có cả "nhân họa" nữa. Thực tế những gì chúng ta đang thấy hôm nay là hậu quả của nhiều năm lệch pha giữa hệ sinh thái và cách chúng ta can thiệp vào nó.
1. Địa hình miền Trung: chiếc phễu hứng nước tự nhiên
Miền Trung là một dải đất hẹp, một bên là biển, một bên là núi. Khoảng cách từ chân núi đến biển chỉ vài chục km. Hãy hình dung một chiếc phễu đặt nghiêng. Nước đổ xuống sẽ chảy thẳng ra đầu nhỏ rất nhanh. Theo logic đó thì với địa hình giống như chiếc phễu của Miền Trung ta sẽ thấy:
Mưa từ núi đổ xuống gần như lập tức. Không có đồng bằng rộng để “giữ nước” như miền Tây hay sông Hồng. Sông ngắn, dốc, dòng chảy mạnh. Nghĩa là nước về nhanh hơn khả năng thoát, tạo ra lũ dồn và lũ quét. Đây là “bản chất tự nhiên” của vùng đất miền Trung dài và hẹp, núi ngay sát biển.
Nhưng tự nhiên vốn có chế độ vận hành và điều hóa riêng của nó. Nếu nhìn lại lịch sử chúng ta sẽ thấy ngày xưa, dù mưa lớn vẫn ít khi ngập sâu như bây giờ. Vấn đề nằm ở những thay đổi chúng ta tạo ra.
2. Rừng mất, tầng đệm hấp thu biến mất
Nếu chiếc phễu nghiêng đó có tấm mút xốp lót phía trên, thì nước sẽ được thấm từ từ, giảm sốc. Rừng chính là tấm mút đó. Khi rừng dày, nước mưa được giữ lại trên tán lá và thấm vào đất rồi chảy xuống dần dần
Nếu rừng bị khai thác quá mức, hoặc thay thế bằng rừng trồng kinh tế (cây non, tán thưa, đất nghèo), thì nước không còn “bị giữ lại”. Nó đổ thẳng xuống sông.
Đất miền Trung lại rất mỏng. Khi mất rừng, mưa xuống là trôi bề mặt, chứ không thấm được. Giống như đổ nước lên nền xi măng nước tràn đi ngay.
Kết quả: lũ đến nhanh, mạnh và bất thường.

Hồ thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ hôm 8/11. Ảnh: An Phương
3. Sông bị thay đổi dẫn đến mất khả năng tự điều hòa
Nguyên nhân bị sông bị thay đổi thì lý do chính là ở các hệ thống thủy điện và hồ thủy lợi.
Hồi học cấp 2 mình nhớ các thày cô giáo dạy là thủy điện là một phát minh tuyệt vời và chỉ có lợi không có hại, nó là minh chứng cho việc con người cải tạo thiên nhiên vừa làm ra điện, vừa giúp trị thủy điều tiết dòng nước làm giảm lũ lụt. Và đã rất nhiều năm mình cũng tin vào điều đó mà không kiểm chứng lại thông tin cho đến sau này khi đọc báo thấy nhiều nước châu Âu và Mỹ người ta dỡ bỏ dần các công trình thủy điện để trả lại môi trường thì mới thắc mắc và đi tìm câu trả lời.
Và kết quả là sau khi tìm hiểu thì mình biết rằng các nước phát triển bỏ thủy điện đã và đang dỡ bỏ thủy điện không phải vì họ “không cần điện nữa”, mà vì hiểu biết hệ thống của họ đã thay đổi. Họ phát hiện rằng thủy điện mang lại điện rẻ trước mắt nhưng gây chi phí hệ thống rất lớn về lâu dài. Khi tổng chi phí ấy vượt quá lợi ích, họ chọn tháo dỡ. Thủy điện cắt đứt dòng chảy tự nhiên, giữ phù sa, làm nước tù, nhiệt độ thay đổi.
Nhiều nước nhận ra điều này khi thấy cá tuyệt chủng hoặc giảm 80–95%, sông mất khả năng tự làm sạch, đất ngập nước và rừng ven sông biến mất. Chi phí phục hồi hệ sinh thái còn lớn hơn chi phí vận hành thủy điện.
Sông tự nhiên có ba chức năng quan trọng là mang nước, mang phù sa và tự đào sâu, tự bồi để ổn định lòng sông.
Khi hệ thống thủy điện xây dựng dày đặc, những chức năng này bị phá vỡ. Phù sa bị giữ lại trong hồ, khiến lòng sông ở hạ du sâu hơn, yếu hơn. Bờ sông dễ sạt lở không còn phù sa bồi ruộng, dẫn tới đất bạc màu
Tệ hơn, hồ chứa dần bị bồi lắng, giảm dung tích chứa nước. Khi mới xây thì dung tích hồ chứa rất lớn nhưng càng ngày theo thời gian phù sa không chảy theo dòng mà đọng lại trong hồ thành trầm tích chiếm dụng không gian lòng hồ dẫn đến dung tích chứa hồ bị thu hẹp lại. Khi mưa đến, hồ nhanh đầy hơn thì ban quản lý buộc phải xả nước nhanh hơn tạo ra dòng lũ nhân tạo dồn dập.
Sông vốn có nhịp điệu tự nhiên của nó nhưng một khi bị khóa lại bằng đập, nó mất đi khả năng tự điều hòa. Khi phù sa không xuống được hạ du nó bờ sông bị xói, lòng sông sâu và khi chảy ra biển thì làm bờ biển lún, cầu cống, đường sá bị phá hủy nhanh. Ở Mỹ và châu Âu, nhiều cây cầu phải sửa liên tục chỉ vì các đập giữ trầm tích. Chi phí bảo trì này vượt xa tiền bán điện nên họ bỏ thủy điện.
Thủy điện là công trình có vai trò hai mặt đem lại lợi ích lớn nhưng rủi ro hệ thống rất lớn.
Nhiều nước phát triển nhận ra hồ chứa có giới hạn. Thời điểm mưa cực đoan và bão ngày càng khó dự đoán rủi ro vỡ đập ngày càng tăng, rủi ro xả lũ khẩn cấp gây thảm họa hậu quả nếu xảy ra sự cố là không thể chấp nhận được đối với dân cư đông đúc. Tháo dỡ đập sẽ làm giảm các tình huống rủi ro khẩn cấp đến mức thấp nhất.
Nói thế này nhiều người nhầm rằng thủy điện gây lũ. Nguyên nhân sâu xa thì vẫn là từ mưa, lượng nước nhiều. Thực tế, bản thân thủy điện không tạo ra nước nhưng nó làm cho dòng nước trở nên hung dữ hơn. Quả thực thủy điện làm thay đổi cách nước đi qua hệ thống nên có thể làm cho lũ lụt trở nên trầm trọng hơn. Thông thường nếu mọi thứ vận hành theo tự nhiên khi có lũ nước sẽ tăng từ từ và có độ trễ lớn hơn khi chảy về đồng bằng, xuôi ra biển.
Nếu không có đập nước thì đường đi của nước sẽ là: Nước mưa thấm vào đất chảy ra suối đổ ra sông. Quá trình này có thời gian trễ tự nhiên dài, nước lên từ từ, đỉnh lũ tăng dần.
Còn đây là tình trạng của lũ có thủy điện: Nước dâng đột ngột, dồn một cục. Khi hồ đầy sẽ rơi vào tình thế lưỡng nan là
Nếu xả ít thì có nguy cơ vỡ đập mà nếu xả nhiều thì sẽ ngập hạ du. Cuối cùng người ta thường buộc phải chọn “phương án ít tệ hơn” là xả nhiều. Và khi xả thì lưu lượng tăng đột biến làm nước đổ xuống trong vài giờ thay vì vài ngày tạo “cú sốc thủy lực” thay vì một quá trình từ tốn.
Trong khoa học hệ thống, đây gọi là spike shock: cú đột biến phá vỡ mọi cân bằng.
Tại sao thủy điện càng nhiều, lũ càng nặng?
Vì các hồ chứa nối tiếp nhau theo chuỗi. Chỉ cần một hồ đầy và xả, hồ dưới cũng phải xả theo. Toàn bộ chuỗi hồ vận hành như một “dòng domino thủy lực”. Vùng hạ du là nơi đông dân nhất sẽ chịu tất cả hậu quả.

Vị trí đèo Khánh Lê đoạn qua địa phận tỉnh Khánh Hòa bị sạt lở nghiêm trọng. (Ảnh: Đặng Tuấn/TTXVN)
5. Đô thị hóa bóp nghẹt mọi đường thoát nước
Ngày xưa nước tràn ruộng, tràn ao, tràn cánh đồng, rồi mới vào nhà dân. Ngày nay bê tông hóa, nhà cửa san sát, ruộng biến thành khu dân cư, ao hồ bị san lấp, cống quá nhỏ so với lượng mưa mới. Nước không còn nơi tạm trú. Nó chỉ có một con đường duy nhất: tràn thẳng vào phố.
Hệ thống thoát nước đô thị miền Trung vốn thiết kế theo dữ liệu khí hậu cũ, khi mưa cực đoan còn hiếm. Giờ khí hậu đã đổi nhưng hạ tầng thì chưa. Khi không gian hấp thu biến mất, lũ không còn “đi vòng được”, và mọi nơi thấp đều trở thành hố nước.
6. Biển chặn đường nước bị dồn nghẽn hai chiều
Các thành phố miền Trung đều nằm ở cửa sông. Khi mưa từ núi đổ xuống, triều biển dâng lên, gió mùa đẩy nước biển vào. Ta có hiện tượng kẹt hai đầu: nước từ thượng nguồn không thoát ra được, nước biển dâng lên chặn ngang như đóng một cái van. Cửa sông tắc nghẽn nước dâng đứng.
Đây là lý do Đà Nẵng, Huế, Hội An… rất dễ ngập dù hệ thống thành phố hiện đại hơn các tỉnh khác.
7. Biến đổi khí hậu: những trận mưa “không thuộc sách giáo khoa”
Tần suất mưa cực đoan đang tăng. Ngày xưa một trận mưa 300–400 mm phải 10 năm mới gặp. Giờ 1 đến 2 năm lại xuất hiện. Nếu hệ thống thiết kế để chịu “trận lũ 10 năm”, nhưng mỗi năm lại có một trận tương tự, thì hệ thống chắc chắn vỡ. Biến đổi khí hậu không gây lụt trực tiếp. Nó làm mọi rủi ro có sẵn trở nên sắc bén và khó lường hơn.
8. Tổng hợp lại: Vì sao miền Trung ngập nặng?
Vì nhiều yếu tố lệch pha cùng lúc:
Rừng suy yếu làm mất khả năng thấm. Đất trơ trọi làm nước trôi bề mặt. Sông bị chặn dẫn đến mất cân bằng phù sa. Thủy điện đầy nước mà không có lựa chọn khác luôn xả khẩn cấp khi có áp lực. Đô thị hóa phá hết vùng chứa nước và thủy triều biển dâng chặn đường thoát
Càng ngày càng có nhiều cơn mưa cực đoan dồn toàn bộ năng lượng vào hệ thống đã suy. Lũ không còn là “nhiều nước”, mà là nhiều nước đi vào một hệ thống không còn chỗ cho nó. Hệ thống mất khả năng chống sốc, nên chỉ cần một tác nhân như mưa lớn là đủ gây thảm họa.
GIẢI PHÁP NHƯ THẾ NÀO?
Giải pháp dài hạn để giảm lũ miền Trung: chỉ có thể làm bằng tư duy hệ thống
Muốn miền Trung hết cảnh cứ mưa là ngập, không thể sửa một chỗ. Phải “chỉnh lại cả dàn nhạc” từ rừng, đất, sông, hồ đến đô thị và biển. Mỗi nơi một chút, nhưng khi kết hợp thành mạng lưới, chúng tạo ra sức mạnh lớn hơn rất nhiều.
1. Khôi phục “tấm mút” tự nhiên: rừng giữ nước, đất giữ nước.
Nếu rừng là cái mút xốp thì ngược lại rừng trọc là nền xi măng. Muốn giảm lũ, bước đầu tiên phải làm cho nước thấm chậm lại.
Các giải pháp căn cơ: phục hồi rừng tự nhiên thay vì chỉ trồng rừng kinh tế, tăng diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn ,xây “đê mềm” bằng cây cối và hệ sinh thái thay vì bê tông và hạn chế phá rừng làm nương, làm dự án ngắn hạn
Hiệu quả không thấy ngay. Nhưng chỉ cần 5 đến 7 năm, đất vùng đồi núi sẽ tăng khả năng giữ nước gấp nhiều lần. Khi rừng khỏe, đất ẩm nước xuống sông chậm thì lũ sẽ thấp. Đây là vòng lặp giải nguy đầu tiên.
2. Trả lại nhịp điệu tự nhiên cho sông
Sông là một sinh vật sống. Nó đào, nó bồi đắp, nó uốn cong để tự điều hòa. Khi bị chặn bằng đập, nó mất chức năng đó.
Giải pháp:
Duy trì lượng xả đáy để đưa phù sa về hạ du, ưu tiên nạo vét hợp lý, khôi phục các nhánh sông cũ. Không bê tông hóa toàn bộ bờ sông, giữ không gian cho sông “thở”. Mở lại một số vùng trũng tự nhiên làm nơi chứa nước tạm thời. Sông được trả lại không gian thì lũ có chỗ tản sẽ làm đỉnh lũ giảm mạnh.
3. Điều độ thủy điện theo “nguyên lý dòng chảy chậm”
Hiện tại chúng ta vẫn còn cần thủy điện vì chưa đủ điều kiện thay thế như các nước phát triển nhưng cũng cần thay đổi cách vận hành bởi vì cách vận hành hiện nay giống như để hồ đầy gặp mưa lớn xả gấp cho kịp. Đây là cách dùng hồ chứa như một cái cốc tràn: dẫn tới cú sốc nước khổng lồ.
Giải pháp hệ thống là
Bắt buộc hạ mực nước hồ xuống trước mùa mưa (giảm 15–25% dung tích tối đa)
Thiết lập quy trình xả sớm, xả nhỏ, xả theo nhịp tự nhiên
Liên thông dữ liệu giữa các hồ theo chuỗi để tránh domino xả lũ. Mấu chốt không phải “xả ít hay nhiều”, mà là xả theo kiểu từ tốn, giống lũ tự nhiên. Dòng nước chảy từ tốn thì hạ du không vỡ vụn.
Có hệ dự báo thời tiết chính xác tới từng giờ và từng lưu vực, cần sớm ứng dụng AI vào dự báo thời tiết, các nước khác đã có dự báo chính xác hơn nhiều khi áp dụng AI.
4. Mở lại không gian cho đồng bằng: cần chỗ trữ nước khi lũ về
Đồng bằng miền Trung hẹp, nhưng vẫn có những vùng trũng, ao hồ, đầm phá từng làm “túi chứa nước” tự nhiên. Khi đô thị hóa lột mất các vùng trũng đó, thì nước không có chỗ đứng.
Giải pháp:
Đào các “hồ sinh thái”, "hồ điều hòa" xen trong đô thị để chứa nước. Không san lấp ao hồ, mà kết nối chúng thành hệ thống chứa lũ.
Khôi phục vùng ngập lũ tự nhiên (floodplain) đưa những khu dân cư trũng thấp vào kế hoạch giãn dân hoặc nâng nền
Một thành phố có đủ không gian chứa nước thì lũ đến chỉ là “nước mưa nhiều”, không phải thảm họa.
5. Thoát nước đô thị phải dựa trên nhận thức về tình hình khí hậu mới, không phải dựa trên nhận thức về tình trạng khí hậu cũ.
Cống thoát nước ở nhiều TP miền Trung được thiết kế cho cường độ mưa của 30–40 năm trước. Nhưng khí hậu đã đổi nhanh hơn hạ tầng.
Giải pháp:
Nâng chuẩn thiết kế thoát nước theo mưa cực đoan 300–500 mm/24h
Làm mương hở và hành lang thoát nước thay vì cống nhỏ
Tăng diện tích bê tông thấm nước và vật liệu thấm
Làm “đường thoát lũ” khẩn cấp trong đô thị
Không có hệ thống thoát nước mới, mọi giải pháp khác chỉ chữa phần ngọn.
6. Quản lý sông, rừng, hồ theo một mạng lưới duy nhất
Lũ không đi theo ranh giới hành chính. Nó đi theo độ dốc, lưu vực và đường dòng chảy nhưng có một khó khăn là hiện nay:
Rừng do lâm nghiệp quản, hồ do thủy điện quản còn lũ do chính quyền tỉnh xử lý. Chúng ta không có một mạng lưới chung. Đây là điểm nghẽn lớn nhất.
Giải pháp:
Lập cơ quan quản lý lưu vực thống nhất theo từng sông
Hồ chứa được vận hành theo mục tiêu an toàn hệ thống, không chỉ theo doanh thu điện
Dữ liệu thời tiết, mực nước, xả lũ kết nối realtime cho mọi bên
Khi cả hệ thống nhìn chung 1 bản đồ, lũ sẽ dễ kiểm soát hơn rất nhiều.

Lực lượng công an dầm mình trong lũ, hỗ trợ người dân sơ tán. Ảnh: C.A
7. Chuẩn bị cho tương lai: mưa cực đoan sẽ còn tăng
Biến đổi khí hậu làm miền Trung thành “điểm nóng mưa lớn ngắn hạn” của khu vực. Cần chấp nhận rằng mưa 300–400 mm/24h giờ đã là bình thường. Bão ít đi nhưng mưa sau bão mạnh hơn. Dải hội tụ nhiệt đới xuất hiện bất thường và chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm cũ để đoán lũ mới
Giải pháp:
Xây bản đồ rủi ro nước theo năm, theo mùa. Có hệ thống cảnh báo sớm từng giờ mô phỏng lũ bằng mô hình số 3D. Cũng cần đưa giáo dục an toàn nước vào trường học để nâng cấp dần kỹ năng "sống chung với lũ" cho người dân để không ai bị bất ngờ.
Lũ không bao giờ biến mất. Nhưng thiệt hại có thể giảm xuống 10 lần nếu chuẩn bị đúng cách.
Tổng kết lại nguyên nhân của tình trạng hiện nay là
Thiên tai + Hệ thống suy kiệt dễ tổn thương = Thảm họa.
Nhưng chúng ta vẫn có lựa chọn khác nếu hành động đúng.
Thiên tai + Hệ thống khỏe = Thử thách có thể vượt qua
Nói tóm lại là: Muốn bớt lũ, phải thuận theo tự nhiên, theo ông trời. Ngôn ngữ hệ thống gọi là phải bớt lệch pha với tự nhiên, cố gắng đồng bộ với hệ sinh thái.
Thành Nguyễn