;
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG NGỘ CHÂN TỬ (1901-1988)
Hòa thượng Ngộ Chân Tử thế danh là Trần Rinh, sinh ngày mùng 03 tháng 03 năm Tân Sửu (1901), tại tỉnh Thái Bình trong một gia đình Nho học. Thân phụ là cụ Trần Quán, thân mẫu là cụ Trần Thị Phược. Ngài là anh cả trong số năm anh em (3 trai, 2 gái).
Sớm hấp thụ và thâm hiểu Nho học từ thời niên thiếu, khi trưởng thành Ngài chuyển sang nghiên cứu Phật học theo sự hướng dẫn của Sư Tổ Quang Huy. Nhờ túc căn sẵn có, lại thêm siêng năng nghiên cứu nên không bao lâu Ngài đã thâm nhập Phật pháp. Vì thế, Ngài nhận thấy nhân sinh đa hoạn, thế sự vô thường, bả lợi danh như trò ảo hóa, mạng sống thật ngắn ngủi mong manh, như lời Tổ Quy Sơn đã dạy:
Sáng còn đó đến giờ chiều mất,
Sát-na qua một giấc đời sau.
Ví như sương mốc sáng nào,
Ánh dương xuất hiện biến vào hư không.
Cây bên bờ, dây trong thành giếng,
Không bao giờ miên viễn dài lâu.
Niệm niệm mau chóng nhiệm mầu,
Chỉ trong hơi chuyển bắt đầu lai sinh.
Do vậy, Ngài nghĩ mình phải sống như thế nào cho xứng đáng không uổng một kiếp người, vì “làm người chỉ xứng với danh nghĩa con người chừng nào người ta đấu tranh để thắng thiên nhiên, cả nội giới lẫn ngoại giới. Chinh phục ngoại giới là một công trình vĩ đại, nhưng chinh phục được nội giới lại còn vĩ đại hơn! Hiểu được những định luật chi phối các vì sao và các hành tinh khác là một điều hay, nhưng hiểu được những định luật chi phối những tham vọng, tình cảm và ý chí của con người còn hay và khó gấp bội phần”. Do đó, Ngài quyết tâm hướng tâm về đạo giải thoát của đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni để tìm cầu chân lý. Sau một thời gian tầm sư học đạo, Ngài đã gặp được Tôn Sư Hư Không Tử thường du hóa tha phương, hành đạo theo hạnh Độc giác và chuyên giảng kinh hóa độ quần mê. Với lời giảng thanh thoát và dung mạo uy nghiêm, biểu thị một bậc chân tu thoát tục, Tôn Sư đã mau chóng cảm hóa Ngài. Vào ngày mùng 08 tháng 02 năm Kỷ Mùi, Ngài được Tôn Sư trao truyền quy giới với pháp danh Ngộ Chân Tử. Sau đó, Ngài đã đắc pháp với cụ Tổ chùa Bà Đá–Hà Nội.
Năm Kỷ Mùi (1919), trên bước đường vân trình theo thầy học đạo, Ngài đã được nhân duyên chiêm bái nhiều nơi cổ tích danh lam. Khi qua Yên Tử, lúc đến Côn Sơn, rồi Non Nước, Tam Đảo, Tản Viên, Hương Tích, chùa Thầy… đều là những thắng địa cho việc tọa thiền tu tập.
Năm 1927, Ngài xin phép thầy trở về trùng tu chùa làng tại Cao Mại, Kiến Xương tỉnh Thái Bình và thỉnh Tôn Sư đến giảng kinh. Cao đức của Tôn Sư và nhiệt tâm của Ngài đã chuyển hóa gia đình quy hướng Phật đạo, đồng tâm xả tục, phát nguyện trai giới tu hành, đem hết tài sản ruộng vườn hiến cúng Tam Bảo để mở mang Phật sự.
Từ năm 1929 đến năm 1932, Ngài đến trùng tu các chùa Quan Âm tỉnh Kiến An; chùa làng Úc Gián huyện Kiến Thụy; chùa Văn Đẩu huyện An Lão; chùa Kiền Bái, chùa Côn Sơn, chùa Đỗ Xá huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; chùa Phù Cốc, chùa Khánh Vân, Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Năm 1935, Ngài mua đất tại Kiến An và sáng lập chùa Hoằng Pháp độ chúng tu hành, hoằng truyền giáo pháp. Trải qua một thời gian dài tu hành, Ngài nhận thấy con đường đến Phật quả phải thực hành Bồ-tát hạnh và lấy Lục độ Ba-la-mật làm pháp tu căn bản. Do vậy, năm 1938, để thực hiện tinh thần bố thí Ba-la-mật, Ngài đã thành lập Viện Dục Anh tại tỉnh Kiến An, thu nhận các trẻ em nghèo khổ, mất cha hoặc mất mẹ, thiếu tình thương về nuôi dạy cho ăn học thành tài. Ngoài việc nuôi dạy cô nhi ra, Ngài còn mở thêm cơ sở tiểu thủ công nghiệp để giúp đỡ những người nghèo khó có phương tiện sinh sống. Việc làm này được chính quyền đương thời và chư tôn thiền đức hết sức tán thán và ủng hộ, vì nó đã thể hiện được tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật, như lời một vị Sa-môn đã ca ngợi:
Đến thăm Hoằng Pháp Dục Anh đường
Cảnh đẹp nhờ tay khéo chủ trương
Lũ trẻ theo duyên bao kiếp lại
Một thầy đủ phúc mấy lần đương.
Quý thay ngọc ẩn sau mình vải
Vui thật vàng phô trước mắt thường
Chúc nguyện chùa này ngày thịnh vượng
Đàn em tắm mát nước cành dương.
Năm 1945 (Ất Dậu), nạn đói tràn lan ở miền Bắc, thây chết đầy đường, tiếng khóc than như xé ruột. Đứng trước thảm cảnh tang thương của đồng bào, Ngài đã vận động các cơ quan từ thiện và những nhà hảo tâm tiếp sức với chùa, tổ chức cứu tế xã hội, giúp đỡ cơm áo thuốc men cho những người đói bệnh. Hằng ngày, Ngài cùng với bổn đạo kéo xe đi nhặt các tử thi xấu số không người thừa nhận về mai táng.
Năm 1953, Ngài mua hai mẫu đất tại tỉnh Hải Phòng, mở tùng lâm tu viện nay là chùa Phổ Chiếu, và lập thêm Viện Dưỡng Lão giúp đỡ người già yếu có nơi an dưỡng, tu niệm.
Năm 1955, với mục đích hoằng dương Phật pháp đến khắp mọi miền, Hòa thượng đã hành đạo đến miền Nam qua các nơi như Gò Công, Cai Lậy, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Châu Đốc.
Năm 1957, nhận thấy Gia Định là nơi thuận duyên trong việc hành đạo, Ngài liền mua sáu mẫu đất tại xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, sáng lập chùa Hoằng Pháp, làm nơi tu hành và hoằng dương Phật pháp, tiếp độ Tăng chúng, hướng dẫn Phật tử tu học.
Năm 1965, trước cảnh màn trời chiếu đất, nhà tan cửa nát của đồng bào bị chiến tranh tàn phá tại Đồng Xoài, Thuận Lợi, Hòa thượng đã đón nhận 60 gia đình gồm 361 nhân khẩu về chùa nuôi ăn trong 8 tháng. Sau đó, xây cất khu định cư gồm 55 căn nhà vách tường mái tôn và cấp cho họ với đầy đủ các đồ dùng cần thiết trong gia đình.
Năm 1968, Ngài thành lập Giáo hội Đạo Tràng Thiền học nhằm mục đích mở rộng việc truyền bá giáo lý đạo Phật đến khắp mọi miền đất nước. Ngài cũng đã tiếp nhận và trùng tu ngôi chùa Thiện Phước tọa lạc tại số 192/11 đường Nguyễn Trãi, quận 5, Sài Gòn làm nơi giảng kinh thuyết pháp, phổ biến kinh sách.
Cũng năm 1968, chiến tranh vẫn tiếp diễn tàn khốc trên quê hương, những trẻ thơ mất cha lạc mẹ bơ vơ không nơi nương tựa hoặc nghèo đói thất học ngày càng nhiều. Một lần nữa, Ngài lại thành lập Viện Dục Anh tại xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, tiếp nhận cô nhi và bần nhi từ 6 đến 8 tuổi, khoảng 355 em, nuôi dạy, rèn luyện đức trí, thể lực để trở thành người hữu dụng cho đất nước trong tương lai.
Năm 1974, mặc dù tuổi đã cao, nhưng với hạnh nguyện từ bi vô lượng, Ngài đã mua 45 mẫu đất tại ấp Phú Đức, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh, dự định thực hiện một chương trình xây dựng làng cô nhi Việt Nam với đầy đủ phương tiện cho các em sinh hoạt và một đền thờ quốc tổ Hùng Vương để nhắc con cháu nhớ đến công cuộc mở nước và dựng nước của các vua Hùng oanh liệt thuở trước. Công việc đang được tiến hành xây dựng thì đến tháng 4 năm 1975 đất nước được thống nhất, Ngài đã hiến số đất đó cho Ban Quản trị khu kinh tế mới sử dụng, hiện nay là nông trường Lê Minh Xuân.
Từ sau ngày giải phóng, Hòa thượng vẫn tiếp tục những công tác từ thiện xã hội cho đất nước. Mặc dù tuổi cao sức yếu và kinh tế eo hẹp, Hòa thượng vẫn đóng góp hàng tháng cho trường Cao cấp Phật học và trong cuộc hỏa hoạn ở chợ Nhỏ phường 24, quận 1, đường Nguyễn Cảnh Chân, TP. Hồ Chí Minh, Ngài đã cứu trợ 3 đợt cho 31 hộ tại đó.
Với tâm nguyện hoằng pháp để giác ngộ nhân sinh, mặc dù bận rộn rất nhiều công tác Phật sự và từ thiện xã hội, Hòa thượng cũng vẫn không quên việc truyền bá chánh pháp, Ngài đã biên soạn một số kinh sách ấn tống như:
1. Kinh Nhật tụng (soạn riêng cho chùa tụng đọc).
2. Nghi luật tu trì thiết yếu.
3. Quy giới hành trì.
4. Sự tích nhân quả báo ứng.
5. Tuyên dương diệu pháp.
6. Đạo giải thoát.
7. Tuyên dương chánh pháp.
8. Trên đường hành đạo.
9. Khóa niệm tùy thân.
10. Lược sử Phật Tổ…
Suốt cuộc đời hành đạo từ Bắc đến Nam, Hòa thượng đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Thật đúng với câu “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo” bởi Hòa thượng ăn thì cơm hẩm, mặc thì áo bô. Có những lúc thấy dân tình đói khổ, Hòa thượng đã nhịn bớt phần mình, chỉ dùng rau luộc muối mè và bảo đồ chúng phải thật tiết kiệm để giúp đỡ cho những người nghèo khổ.
Quanh năm suốt tháng ở lều tranh vách đất, nhưng mang trong lòng một hoài bão hoằng pháp lợi sinh. Dầu đến lúc gần lìa cõi tạm, Ngài vẫn còn chưa thỏa nguyện bình sinh. Mỗi khi các đệ tử xa gần về thăm là Ngài cứ nhắc nhở: “Hãy tinh tấn tu hành, chuyên cần niệm Phật đừng để vọng niệm theo trần cảnh. Vẫn biết Nhị đế phải dung thông, nhưng trong cái tùy duyên với muôn nghìn phương tiện thiện xảo ấy, các con đừng để bị nhận chìm trong Tục đế mà phải như đóa sen thanh khiết nơi vũng bùn lầy nước đục. Dù bất cứ hoàn cảnh hay trạng huống nào vẫn xứng đáng với con giòng họ Thích, đừng phản bội lại lý tưởng của chính mình”.
Năm 1986, tuổi đã quá cao, sức người có hạn, đã mang nhục thân nên có cái hoạn của nhục thân, Hòa thượng lâm bệnh và mặc dù đã chạy chữa nhiều phương, bệnh tình vẫn không tăng không giảm. Biết mình sắp rời xa Đạo Tràng môn chúng, Hòa thượng đã nhắn nhủ mọi điều, bảo ban cặn kẽ. Trước đó một tuần, Hòa thượng không chịu tiếp thuốc men và bảo: “Hãy để tôi về, nuối tiếc làm gì nữa”. Và Ngài đã an nhiên thị tịch lúc 13 giờ 30 phút ngày 16 tháng 10 năm Mậu Thìn, tức ngày 26 tháng 11 năm 1988 tại chùa Hoằng Pháp. Trụ thế 88 năm, được 65 tuổi đạo.
Đất thảm trời sầu Hòa thượng quy
Đau lòng Phật tử với Tăng Ni
Nhớ thương Đại lão tâm Bồ-tát
Kính mến cao Tăng hạnh đại bi.
Giáo lý in kinh rèn đệ tử
Đạo vàng lập trại cứu cô nhi
Đại hiền rũ thoát nơi trần tục
Nghĩa nặng ơn sâu đức độ trì.
Nguồn: Chùa Hoằng Pháp