;
Đại đức Thích Thanh Tâm – Giáo thọ sư Phụ trách Luận Đại thừa khởi tín
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại Trường Trung cấp Phật học Đà Nẵng năm cuối, khóa VIII, với bộ môn Luận Đại thừa khởi tín.
Duyên đã đủ thì quả hiển lộ; đây cũng là dịp tạm dừng bước chân học tập và hoằng hóa miền Bắc để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời và xem tâm tư thế hệ mai sau ưu tư những gì trong nếp sống thiền môn, trong nếp nghĩ tu tập hằng ngày.
Từ đó, qua những lần gặp mặt ảo “online” và cả những lần thật mà ảo (khẩu trang che kín), tôi đều hướng những người học trò của mình, từ bài học triết lý “sinh khởi niềm tin Đại thừa” đến nếp sống thường nhật “buồn – vui nào ai hay” sau cánh cổng chùa.
Thầy và trò gặp nhau, thoáng cái đã chia tay. Trò tiếp tục đi lên trên lộ trình học tập và thăng tiến; Thầy chậm rãi đi xuống theo năm tháng tuổi đời hư hao. Nhiều gương mặt học trò “gần như mới” bởi dịch bệnh, bởi khẩu trang, bởi mắt mờ của Thầy giáo “có tí tuổi rồi”.
Cũng lợi dụng điều đó, những người học trò ngồi sau, tranh thủ Giáo thọ không nhìn thấy, chợp mắt một chút, mơ mộng một tương lai xa vời. Mơ thì đẹp, mộng thì hay; thế mà, giật mình mở mắt, mộng mơ nào thấy, chỉ thấy giám thị gọi tên “xuống văn phòng uống nước”.
Khách sang sông hăng hái đi về phía trước, người đưa đò lầm lũi bên bến sông xưa. Những lần dõi mắt nhìn xa, xem học trò trưởng thành hay vấp ngã; những lời khuyên răn, những lời dặn bảo, không biết có giúp được các con trưởng thành không; hay, của Thầy trả lại cho Thầy, chẳng cần, chẳng nhớ những lời đó đâu. Nhớ chi cho lắm ưu sầu, quên đi cho nhẹ cái đầu Thầy ơi!”.
Nghĩ cũng phải, trong xu thế “đời hóa” mà bàn chuyện “làm Phật” thì khó lắm thay! Ai chẳng tham câu danh lợi, ai chẳng thích thú vui thế gian. Ai chẳng muốn xênh xang áo mão, ai chẳng mê nhung lụa kiêu sa.
Thôi thì, người ở lại, giữa núi đồi cô tịch, trong không gian vắng lặng, bên ánh đèn leo lét, cặm cụi soi từng con chữ, ngẫm từng câu Kinh; rồi buông mọi phan duyên để ngẫm nghĩ, để quán chiếu nội tâm và ngoại cảnh nhằm vạch ra hướng học đạo và hành đạo đích thực, cho mình và cho những ai thấy cần thiết.
Thầm nghĩ, Phật giáo và Dân tộc Việt Nam đã gắn kết và hòa chung nhịp sống từ thuở ban sơ, có thể nói rằng Việt Nam có bao nhiêu năm văn hiến thì có bấy nhiêu năm song hành cùng Phật giáo.
Do đó, đã hình thành nên một nét văn hóa đặc thù mang sắc màu Phật giáo, khi quốc gia hưng thịnh thì Phật giáo hưng thịnh, khi quốc gia suy yếu thì Phật giáo cũng cùng với vận mệnh lênh đênh của đất nước.
Cho nên, trong xu thế phát triển hiện nay của thế kỷ XXI, Phật giáo Việt Nam đang đứng trước vận hội mới, cơ hội và thách thức đan xen nhau. Vì thế, trong vận mệnh phát triển ấy, thế hệ chúng ta, hàng đệ tử tại gia và xuất gia của đức Thế Tôn, cần rèn luyện bản lãnh, trang bị chất liệu gì để thong dong lên đường học đạo và hoằng hóa?
“Trong những cộng nghiệp và biệt nghiệp ấy, dân tộc Việt Nam cũng đang trải qua những biến đổi trầm trọng, từ hình thái tổ chức xã hội cho đến định hướng tư duy.
Phật giáo Việt Nam cũng đã và đang chịu những thử thách lớn của thời đại, không chỉ xuất hiện những hình thái sinh hoạt biến đổi theo cơ cấu tổ chức của một xã hội tiêu thụ, mà chính trong tư duy cũng biểu hiện những giá trị lệch hướng, định hướng theo thị hiếu quần chúng, thỏa mãn nhu cầu tri thức thấp kém, những giá trị thế tục phù phiếm.
Khi mà những người học Phật bị mê hoặc bởi các giá trị thế tục, diễn giải giáo nghĩa theo kiến thức nhặt lượm từ những thành tựu vụn vặt trong xã hội tiêu thụ, chánh kiến mờ nhạt dần, và Chánh pháp được thay thế bằng tượng pháp; vàng thật được thay thế bằng vàng giả, như Đức Phật đã giải thích cho Tôn giả Đại Ca-diếp: Khi vàng giả xuất hiện trong thị trường tiêu thụ, vàng thật biến mất.
Đây là quy luật cần được hiểu theo ý nghĩa kinh tế học. Do bản thân vàng giả không hàm chứa giá trị nội tại, người tiêu thụ dễ dàng phung phí. Từ đó, tạo ra ảo tưởng về một xã hội phồn vinh, mà nhất định nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ.
Cũng vậy, những giá trị phù phiếm của tượng pháp vẽ ra ấn tượng hư cấu về một thời kỳ hưng thịnh của Chánh pháp, đồng thời cũng hàm chứa tín hiệu cho sự suy tàn tất yếu.
Phật giáo Việt Nam, trong hiện tại đang chứng kiến hiện tượng trăm hoa đua nở, mà bất cứ ai, có trí hay không có trí, có học hay không học, có đạo hay vô đạo, đều có thể phát ngôn tự ý và tự gán cho đó là Phật ngôn mà không thể tìm thấy bất cứ đâu trong kho tàng Thánh điển; được diễn giải tùy tiện nhằm thỏa mãn thị hiếu vật dục thấp hèn. Như một dự ngôn đã báo trước bằng ẩn dụ: đem vàng đi đổi củi; mang giáo nghĩa giải thoát cao thượng đổi lấy những giá trị thế tục được cho là giá trị văn minh thời đại.”[1]
Do vậy, giữa thời đại mà nhiễu loạn thông tin đang là công cụ đắc lực cho các tham vọng quyền lực, đam mê tài sản, hấp dẫn tiêu thụ, thật khó mà phân biệt thật với giả, chánh tín với tà tín và cuồng tín; những giá trị hư cấu được phổ biến gây nên ảo giác về một xã hội phồn vinh; cũng vậy, Phật ngôn hư cấu tác thành vọng tưởng về sự hưng thịnh của Chánh pháp, và lịch sử quá khứ cũng như hiện tại đã và đang chứng kiến sự suy thoái đạo đức trong các chúng đệ tử Phật; chúng ta hãy học theo hạnh nguyện của Ngài Bồ Đề Đạt Ma lên đường học đạo và truyền giáo và được soi sáng bởi ánh sáng thâm huyền của công án “chiếc dép Tổ sư” để thực hiện sứ mệnh độ sinh.
Hình ảnh Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma với đôi mắt, to và sâu thẳm như hư vô khiến người ta xao xuyến, khiếp sợ. Như nhà thơ Y Sa diễn tả: “Mắt sâu hút bóng thiên đàng. Một khung trời nhỏ, lá vàng chợt bay. Người ngồi giữa cuộc đổi thay. Nghe sông núi cạn phút giây vô thường.”
Cho nên, văn học Trung Hoa dùng từ “bích nhãn hồ tăng” nghĩa là “nhà sư mắt biếc đất Hồ” để gọi Ngài. Và từ đó, Ngài bước chân vào huyền sử như Trúc Thiên, trong Linh thoại Bồ Đề Đạt Ma cảm thán:
“Từ Tung sơn, sừng sững bên vách đá Thiếu Lâm, bóng Người ngả dài suốt lịch sử Đông Phương như một tượng trưng thuần túy của Đạo. Ngót mười lăm thế kỉ, lòng người còn nghe đồng vọng tiếng Người nói; chốn Già lam còn vang dội bước Người đi.
Đối với Người, sự thực là sự thực, không được trả giá. Trả giá với sự thực là kí kết với ma. Con người đi xuống quá rồi, thế đạo đang nghiêng ngửa giữa sắc tướng; cần cấp thời chận đứng cái đà tuột dốc; cần vươn mình mở lấy con đường không đường, cần nhảy thẳng vào tâm điểm cuộc sống, của giác ngộ. Căn bịnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi đao vào tròng ung thư. Trong tinh thần vô úy ấy Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng ta chơn lí tối hậu: hoát nhiên vô thanh.”[2]
Thế nhưng, ngày nay, mấy ai ngẫm được cái triết lý thâm huyền ấy để làm tiêu đích học và hành đạo; người ta mãi bận tâm đến hình ảnh chiếc dép trên đôi vai Ngài, có người bảo “là Đạo pháp để lại, đạo pháp mang đi”. Người kia thì chỉ vào chân trần của Tổ sư nói: “Sắc là không, không là sắc”.
Rồi hai vị nỗ lực viện dẫn kinh sách, biện bác, bảo vệ chính kiến của mình, mà quên rằng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật” (不立文字,教外別傳, 直指人心, 見性 成佛), nghĩa là, phải hiểu thấu đáo một câu Kinh bằng cách đập vỡ cả kính lẫn ảnh, vượt qua mọi hình thái ý niệm, không phân biệt mê ngộ, không chú ý đến hiện tại hay sự vắng mặt của tâm tưởng, không bắt không bỏ hai đường thiện ác như Đại Ứng quốc sư đã diễn tả.
Như vậy, giữa những âm ba lao xao của xã hội, hãy ngẫm nghĩ công án “chiếc dép”, rồi đến sự im lặng sấm sét sau chín năm diện bích của Tổ Sư, chứ đam mê vào ngôn ngữ để kỳ thị thì biết bao giờ mới thấy sự thật. Sự lầm lẫn của chúng ta cũng giống như Vua Lương Vũ Đế, thực hiện việc tô tượng, đúc chuông, xây chùa, chép kinh, học đạo và hành đạo mà không ngộ nổi những lời khai thị về yếu tính Phật pháp của Đạt Ma sư tổ.
Do đó, khi diện kiến chân dung bức họa Tổ sư chích lý quy Tây, chính đôi mắt sâu huyền kia nhìn thẳng vào tâm tư chúng sanh và nói: “Một chiếc Ta vừa đánh rơi”. Để từ đó, hãy học và hành đạo như chiếc thuyền không đáy, chuyên chở cuộc đời qua những ghềnh thác cheo leo để dựng xây hạnh phúc đích thực./.
Giáo thọ Thích Thanh Tâm
Phụ trách Luận Đại thừa khởi tín
Trung ẩn sơn, Thiệu Long tự, mùa an cư 2566