;
Cuộc sống hằng ngày với con đường Bát Chánh Đạo
Con người sinh ra vốn không hoàn hảo và ai ai cũng có sai sót, lầm lỗi, không trừ một ai.Do đó trong cuộc sống, đôi khi có nhiều điều đã nói ra, làm cho người ta tự trách mình tại sao mình lại nói những lới nói sai như thế đó.
Từ những lỗi lầm gây ra trong lời nói đã làm cho con người ý thức được cái giá trị hay đẹp cao cả đáng quý của nó để giúp cho mình tự kiểm soát được tâm ý của chính mình. Từ đó sữa đổi bản thân và góp phần tô bồi cho cuộc sống xã hội thêm tươi đẹp hơn.
Sai lầm
tiếp nối sai lầm không chỉ là cách để hối hận, ăn năn hay sám hối trong lời nói bằng hai chữxin lỗi và xin lỗi, mà còn là cách để nhắc nhở về những điều tốt điều lành mà người ta thường tự trách mình hay quên không làm.
Trong tinh thần Phật học làm chủ lời nói không có phải là chủ đề mới lạ, nhưng những thói quen, đã học, đã hiểu, đã biết về chánh ngữ, đã thường hay bị quên thực hành. Do đó cho dù con người có rút tỉa hàng nhiều kinh nghiệm, từng trãi trong cuộc sống, từ nhỏ cho đến lúc bạc đầu vẫn còn có những sai lầm.
Chánh ngữ không phải là sự chỉ dẫn cho tất cả những điều tốt điều lành, nhưng không cóChánh ngữ thì không có tất cả những điều tốt điều lành được tồn tại.
Chánh ngữ là những cách ăn nói, xử thế, nhã nhặn, thành thực, chân thành và cũng là một trong những nền tảng căn bản để xây dựng con người.
Chánh ngữ là chữ Đức Phật dùng làm việc giáo dục nhân bản để giúp con người tự rèn luyện để trở thành một con người sống phù hợp với những nghi thức trong xã hội về mặt tinh thần cũng như thể xác.
Chánh ngữ trong tiếng Phạn gọi là samyag-vāk và viết theo mẫu devanāgarī: सम्यग् - वाक्hay सम्यग्वाक् là cách viết theo nguyên tắc nối âm của chữ Phạn.
Chánh ngữ thuộc nhóm Giới (tiếng Phạn: शील śīla, có động từ gốc là √ शील् śīl, có nghĩa: phục vụ, thực hành, quy luật, kỷ cương ) trong Bát Chánh Đạo.
Chánh ngữ có nghĩa là lời nói đúng xa lìa lời nói hư dối, một lời nói ra không làm cho tan vỡ, hạnh phúc gia đình, không làm cho mọi người nghi ngờ lẫn nhau, một lời nói để lợi cho mình và cho người, một lời nói ra người nghe hoan hỷ, một lời nói có ích lợi làm cho tâm người nghe được an tịnh, một lời nói thành thật ngay thẳng, bình đẳng, hòa nhã, rõ ràng, giản dị, khuyến tấn, một lời nói hợp thời và đúng lúc, hợp tình và hợp lý, mang đến cho người nghe cảm giác thương yêu, Từ, Bi, Hỷ, Xả. Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói, mà trái lại, dùng lời nói để tạo các nghiệp thiện lành.
Lời nói là sự biểu hiện của tâm tư và ý nghĩ, nếu không cẩn trọng, thiếu suy nghĩ, thì lời nói dễ làm cho người khác đau khổ, mà đôi khi chính mình cũng cảm thấy ăn năng hối hận, vì nói lời bất cẩn của mình mà gây ra tai họa.
Bản chất của lời nói tùy thuộc vào những nội dung khác nhau của tâm thức. Nếu tâm có nhiều giận hờn, bức xúc… thì lời nói sẽ mang sắc thái nặng nề, hung dữ. Còn nếu tâm ta thanh tịnh thì lời nói sẽ dễ nghe, trong âm điệu hài hòa. Nói là một nghệ thuật và cũng là một cách tu qua sự quán sát chọn lời và lắng nghe.
Trên phương diện so sánh, Tư duy thì có tìm hiểu và suy xét, còn Ngôn ngữ thì có lời nói và sự phân tích, chứng minh, hay diễn tả mà còn gọi là luận. Như vậy Ngôn được hiểu như Tìm hiểu của Tư và Luận được hiểu như Duy.
Từ điểm này cho thấy tám yếu tố của Bát Chánh Đạo, dù có sự phân chia chúng ra thành những nhóm khác nhau, nhưng chúng vẫn có sự liên quan mật thiết với nhau.
Kết qủa cho thấy rằng: Càng thực tập Chánh tư duy, thì càng tạo điều kiện để giúp cho những mầm móng của Chánh kiến khác được nẩy nở và tăng trưởng thêm. Chánh kiến là nguồn nuôi dưỡng của Chánh tư duy.
Nhờ sự phát triển của Chánh kiến và Chánh tư duy mà Chánh ngữ được biểu hiện rõ ràng. Do đó khi lời nói gây ra đau khổ thì phải biết đó là sự nhìn thấy chưa rõ ràng và việc suy nghĩ chưa đúng.
Trong tương giao giữa mọi người, Chánh ngữ là phương pháp để thu phục nhân tâm hay cách xử thế qua cách nhìn đúng, nghĩ đúng bằng lời nói. Thí dụ như: Làm cách nào để khuyên bảo người khác, khi biết họ làm sai, nói sai, hay nghĩ sai? Nói cách nào để khỏi làm mất lòng người nghe? Chỉ có Chánh ngữ và Chánh ngữ.
Ngôn ngữ là chữ viết và tiếng nói để giúp cho con người, hiểu biết, trao đổithông tin văn hóa, tạo điều luật ngăn ngừa những tội ác và xây dựng nền tảng văn minh cho nhau trong xã hội. Tất cả hạnh phúc trên đời đều bắt đầu từ lời nói của con người và đừng bao giờ mong người khác nói lời dễ nghe, trong khi chính mình chưa làm được như vậy.
Muốn thấy được đạo, tức là muốn cuộc sống được an lạc hạnh phúc, thì hãy tập làm Người biết cách nói đúng đắn, bằng những lời nói cao quý, hữu dụng, đầy đủ ý nghĩa sâu sắc, ghi lại ở trong phần giới của Đức Phật đã đề ra. Hiểu được như vậy, hành được như vậy, chính là Người tu theo Chánh ngữ.
Lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội. Chính vì thế mà Đức Phật đã đưa Chánh Ngữ vào Bát Chánh Đạo.
Trong kinh Lời Nói (Tăng Chi 5.198), có ghi:
Đức Phật giảng 5 yếu tố của một lời nói thiện lành như sau:
"Thành tựu năm chi phần, này các Tỳ khưu, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm tội và không bị những bậc Hiền trí chỉ trích. Thế nào là năm? Nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói lời đem đến lợi ích, nói với từ tâm".
1) Nói đúng thời: có khi một lời chân thật nhưng không được phát biểu đúng lúc thì thành ra vô ích hoặc làm cho người khác bực mình. Người thiện trí phải tế nhị để áp dụng lời nói của mình đúng chỗ, đúng lúc.
2) Nói đúng sự thật: bậc thiện tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa dối.
3) Nói lời nhu hoà: lời nói cần phải dịu dàng, lễ phép, tạo không khí hòa hợp.
4) Nói lời đem đến lợi ích: lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô dụng.
5) Nói lời với từ tâm: lời nói phải phát xuất từ tấm lòng thương yêu, cẩn trọng.
Trong kinh số 58, Trung Bộ, có ghi:
Vương tử Vô Úy hỏi Đức Phật rằng có thể nào lời nói của Ngài làm phật ý người khác hay không. Ngài trả lời:
Này Vương tử Vô Úy, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, ở đây, Như Lai biết đúng thời mà giải thích lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời nói ấy.
Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết đúng thời mà giải thích lời nói..