;
Tịnh độ là gì? Tịnh độ chính là cõi nước hoàn toàn thanh tịnh an vui không có phiền não khổ đau được hình thành dựa trên hạnh nguyện độ tha của chư Phật, chư Bồ tát. Bằng bốn năng lực “Từ, Bi, Hỷ, Xả” cùng với nhân duyên thù thắng và quả vị viên mãn mà hóa hiện ra vô số cảnh giới Tịnh độ để tiếp dẫn, trợ duyên cho chúng sinh vãng sinh về nơi đó tu tập cho đến ngày thành Phật.
1. Tịnh độ là đối với Uế độ mà thành lập
Do có “Uế độ” nên hiện ra “Tịnh độ”, cũng như “sạch” đối với “dơ”mà có, hoặc “trắng” đối với “đen” mà lập. Tất cả duy chỉ một mục đích là hiển bày rõ sự “khổ” ở cõi “Uế độ” dơ bẩn, đen đúa và hiển bày sự “an lạc” trong sạch, tinh khiết ở cõi “Tịnh độ” để chúng sinh khởi lên ý niệm buông bỏ tham chấp, si mê trong ngục tù của “thương giận, buồn vui, ghét muốn” hướng đến sự giải thoát nội tâm đạt được “hoan hỷ, thương yêu, hiểu biết” chân thật.
a. Uế độ
Là cõi nước do cộng nghiệp của chúng sinh nương gá nhau mà hình thành. Chúng sinh phần nhiều phước đức ít, nghiệp chướng dày nên chiêu cảm cảnh giới tương xứng khổ nhiều vui ít. Ví dụ như cõi Ta bà của chúng ta.
b. Tịnh độ
Là cõi nước của chư Phật, chư Bồ tát tát hóa hiện trang nghiêm thanh tịnh, không trần cấu bẩn nhơ được dùng làm đạo tràng để hóa độ chúng sinh. Ví dụ như cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà.
Trong mười phương thế giới có vô số cõi Tịnh độ như cõi Tịnh độ của Phật Dược Sư trong kinh “Dược sư Lưu ly bản nguyện công đức”, cõi Tịnh độ Diệu hỷ của Phật Bất động trong kinh “Đại Bửu tích”, cõi Tịnh độ Cực lạc của Phật A Di Đà được nói trong kinh “Vô lượng thọ, Quán vô lượng thọ, Phật thuyết A Di Đà kinh”.v.v… ngoài ra còn vô số cảnh giới Tịnh độ khác.
Tùy theo căn cơ sai biệt của vô số chúng sinh mà chư Phật hóa hiện vô số cõi Tịnh độ khác nhau. Trong “Tây phương hiệp luận” phân chia thành 10 cõi Tịnh độ không đồng như: Tỳ Lô Giá Na Tịnh độ, Duy tâm Tịnh độ, Hằng chơn Tịnh độ, Biến hiện Tịnh độ, Ký báo Tịnh độ, Phân thân Tịnh độ, Y tha Tịnh độ, Thập phương Tịnh độ, Nhất tâm tịnh độ và Bất khả tư nghì Tịnh độ. Nói mười cõi Tịnh độ khác nhau là đứng trên phương diện danh từ giả lập nhưng kỳ thật các cõi Tịnh độ đều chung một bản nguyện căn bản là tiếp dẫn và hóa độ chúng sinh lìa mê khai ngộ. Vì sao? Vì trong một cõi bao hàm cả bốn cõi tương ứng với từng cấp độ tu chứng: Phàm thánh đồng cư Tịnh độ, Phương tiện hữu dư Tịnh độ, Thật báo vô chướng ngại Tịnh độ và Thường tịch quang Tịnh độ. Tuy nói có 4 hay có vô số nhưng kỳ thực chỉ là một vì vô lượng chư Phật cũng chính là một đức Phật và ngược lại. Do chúng sinh căn tánh không đều nên hóa hiện ra dùng làm phương tiện để tiếp độ.
Với hàm ý này cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà cũng chính là bao hàm tất cả cõi Tịnh độ của mười phương chư Phật khác.
2. Cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà
Như vô số cõi Tịnh độ khác, cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được thiết lập dựa trên 48 lời đại nguyện thâm sâu, chứa chan lòng đại từ bi cùng với năng lực trí tuệ vi diệu tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc Tây phương tạo thắng duyên lành tu tập đến ngày viên thành Phật quả.
a. Vì sao đức Phật Thích Ca đặc biệt tán thán cõi Tịnh độ Cực lạc Tây phương
Cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được chính lời vàng chân xác của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai đặc biệt giới thiệu và tán thán vì:
b. Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ
Chánh báo tức là quả báo hiện nơi tự thân. Ví như thân tướng trang nghiêm thù thắng của Phật A Di Đà.
Y báo tức là quả báo hiện ngoài tự thân. Ví như hoàn cảnh, quốc độ và tất cả sự vật bao quanh nơi thế giới Cực lạc.
Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ được hình thành từ sự tư duy nhiếp thủ của đức Phật A Di Đà khi còn là một vị Pháp Tạng Tỳ kheo. Vì nguyện lực muốn thiết lập cảnh giới Tịnh độ để nhiếp hóa chúng sinh mà thỉnh cầu đức Thế tự tại vương Như Lai hiển bày về thắng cảnh ưu việt của 210 cõi Tịnh độ. Sau khi quán sát rõ y báo và chánh báo nơi các cõi Ngài đã tinh cần tư duy tu tập “tạo nhân quốc độ” trải qua 5 kiếp mới hình thành cõi Cực lạc trang nghiêm.
Do nhân và quả thù thắng như vậy, nên chúng sinh nào nhất tâm cầu nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ cũng đều đạt được y báo và chánh báo trang nghiêm như Phật A Di Đà ví như nước trong chậu hòa vào nước biển, cùng chung một hương vị không khác.
• Chánh báo trang nghiêm
Trong “Phật thuyết A Di Đà kinh” ghi rằng “…Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế. Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi Cực lạc, những chúng sinh vãng sinh vào đó đều là bực bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi! Xá-Lợi-Phất! Chúng sinh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sinh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ…”
Trên chỉ giới thiệu một trong rất nhiều chánh báo thù thắng nơi cõi Tịnh độ, nay nói tóm lược như sau:
- Thân tướng trang nghiêm: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sắc như vàng ròng, cùng đồng một thể không có sai khác.
- Thọ mạng vô hạn lượng: Người vãng sinh về Cực lạc sống lâu vô cùng, hoàn toàn tự chủ, tùy theo bản nguyện.
- Có đủ sáu phép thần thông: Thấy suốt tất cả (thiên nhãn), nghe suốt tất cả (thiên nhĩ), biết rõ tâm niệm kẻ khác (tha tâm), biết rõ kiếp quá khứ (túc mạng), đi lại tự tại (thần túc), khi đắc quả A La Hán dứt sạch nghiệp luân hồi (lậu tận).
- Tâm trí: Luôn an trụ trong chánh định.
- Không còn đọa vào ác đạo: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.
- Hóa sinh: Sinh ra từ hoa sen không do ái dục giữa nam nữ mà thành.
- Thân tâm an lạc: Như các vị Tỳ kheo đã chứng quả A La Hán.
- Không còn có tên bất thiện: Danh từ và sự bất thiện đều không.
- Đạo tâm bất thoái: Tâm luôn dũng mãnh tinh tấn thẳng đến đạo Vô thượng chánh giác, không còn thoái chuyển.
- Trí tuệ biện tài: Biện tài ứng đối thông suốt không chướng ngại.
- Được vô sinh nhẫn: Phá trừ hết ngã chấp và pháp chấp. Lý và trí không hai.
- Oai lực tự tại: Như chư Bồ tát, Thanh văn đầy đủ năng lực, thần thong tự tại.
- Thân sáng chói lọi: Hàng Thanh văn thân thì chiếu sáng được một tầm; hàng Bồ tát thì thân chiếu sáng được từ một trăm do tuần cho đến tam thiên đại thiên thế giới.
- Vô số Thanh văn: Đức Thích Ca đã bảo cho Ngài A Nan hay rằng: "Có sức thần như Mục Kiều Liên và dùng sức thần thông ấy trải qua trăm ngàn muôn ức vô số kiếp, cũng không thể biết được số lượng Thanh văn Bồ tát chứng quả trong đại hội đầu tiên của đức A Di Đà giáo hóa; dù cho có biết được một phần nào mà nếu đem so với số chưa biết được thì cũng không khác nào một giọt nước so với biển cả."
- Vô số bổ xứ Bồ tát: Bồ tát sắp thành Phật không thể đếm được.
• Y báo trang nghiêm
Phật thuyết A Di Đà kinh lại chép rằng: “…Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sinh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực lạc. Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực lạc…”
Đây cũng chỉ là một phần y báo nơi cõi Cực lạc thù thắng, nếu nói rộng ra thì đến muôn ngàn lời, nay tóm lược về phần y báo như sau:
- Cõi nước bằng phẳng thanh tịnh: không có bụi dơ, sông ngòi hang hố, núi non gò đống chập chùng.
- Mặt đất do bảy báu tạo thành: Dưới đáy đất có đế bằng vàng, kim cang và thất bảo chống đỡ đất lưu ly.
- Khí hậu ôn hòa: Khí hậu không lạnh không nóng, mát mẻ quanh năm..
- Lưới báu bủa giăng: Vô lượng lưới báu treo các linh báu giăng khắp cõi Phật. Hễ nghe tiếng linh thì tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
- Sáu thời mưa hoa: Ngày đêm chia sáu thời có gió dịu phảng phất; đồng thời từ trên trời, hoa mạn đà la rơi xuống cùng khắp bờ cõi thơm tho mát dịu.
- Sen báu đầy dẫy: Các thứ hoa sen báu mọc lên cùng khắp cả cõi Phật. Mỗi một hoa sen báu lại có trăm ngàn ức cạnh phát ra vô lượng màu sắc.
- Hóa Phật thuyết pháp: Từ mỗi hoa sen báu tuôn ra ba mươi sáu trăm ngàn ức hào quang; trong mỗi hào quang hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức đức Phật, với thân vàng sáng chói, tướng tốt trang nghiêm. Mỗi một đức Phật lại phóng ra vô số hào quang chiếu sáng khắp mười phương và nói pháp nhiệm mầu cho mười phương nghe.
- Cây đạo tràng của Phật: Cây đạo tràng của đức Phật A Di Đà là do các báu hợp thành. Trên cây treo các chuỗi ngọc, lưới báu bủa giăng hết thảy đều trang nghiêm và tùy ý ứng hiện.
- Cây báu phát âm thanh: Vô số cây báu mọc cùng khắp cõi Tịnh độ. Khi một làn gió nhẹ thoảng qua, từ cành từ lá, từ hoa, từ quả mỗi mỗi đều phát ra năm thứ thanh âm hòa nhã như trăm ngàn điệu nhạc hòa tấu một cách tự nhiên. Nghe tiếng nhạc ấy rồi chúng sinh liền lần lượt chứng nhập giáo pháp sâu xa, tiến lên bậc bất thoái, tiến mãi cho đến khi thành tựu quả Phật.
- Muôn vật nghiêm lệ: Hết thảy muôn vật đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng suốt xinh đẹp. Hình sắc đặc biệt và lộng lẫy một cách vi diệu, không thể tả xiết.
- Không có ba đường dữ: Không có các khổ nạn của ba cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh
- Cung điện trang nghiêm: Hết thảy nhà cửa như giảng đường tịnh xá, cung điện, lầu gác đều tự nhiên thành tựu và đều được xây và trang hoàng từ bảy thứ báu.
- Quốc độ thanh tịnh: Quốc độ thanh tịnh trong suốt như một thế giới pha lê, chiếu tỏa khắp mười phương, khiến từ đó có thể trông thấy được vô lượng vô biên vô số thế giới của Chư Phật bất khả tư nghì.
- Hồ tắm trong thơm: Nước trong các hồ tắm yên lặng trong suốt, bản chất thanh tịnh mùi vị thơm tho như nước cam lồ và có đầy đủ tám tính chất gọi là "bát công đức thủy." Nếu là hồ hoàng kim thì dưới đáy là cát bạch ngân; nếu là hồ bạch ngân thì dưới đáy là cát vàng; nếu là hồ thủy tinh thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ lưu ly: thì dưới đáy là cát thủy tinh; nếu là hồ san hô thì dưới đáy là cát hổ phách; nếu là hồ hổ phách thì dưới đáy là cát san hô; nếu là hồ xa cừ thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ lưu ly thì dưới đáy là cát xa cừ; nếu là hồ bạch ngọc thì dưới đáy là cát vàng tiá; nếu là hồ vàng tiá thì dưới đáy là cát bạch ngọc. Các nhóm báu ấy còn thay đổi tùy theo ý người muốn: hoặc do hai thứ báu, hoặc do ba, bốn cho đến bảy thứ báu mà hợp thành hồ.
- Nước hồ lên xuống tùy nguyện: Nhân dân ở quốc độ Cực lạc, một khi bước chân xuống hồ, mực nước lên xuống cao thấp đều tùy theo ý nguyện. Cũng tùy theo ý nguyện mà nước hồ có ấm lạnh một cách tự nhiên. Tắm xong, tinh thần thấy sảng khoái và tẩy trừ hết tâm cấu nhiễm. Mỗi khi bước xuống tắm bốn phiá bờ hồ có tiếng sóng vỗ lao xao như một điệu nhạc, phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tiếng tịch tịnh xa vắng, tiếng vô ngã, tiếng đại từ đại bi, tiếng ba la mật... Những tiếng phát ra như vậy rất xứng hợp với người nghe và khiến người nghe sinh tâm hoan hỷ vô lượng
- Hương xông ngào ngạt: Từ mặt đất lên đến hư không, hết thảy cung điện, lầu gác hồ sen, cây hoa v..v... Cho đến tất cả vạn vật đều xông ướp trong trăm ngàn thứ hương thơm, kết hợp do vô lượng tạp bảo đặc biệt. Hương ấy tỏa khắp mười phương thế giới; Bồ tát ngửi thấy mùi hương liễu dũng mãnh tu theo hạnh Phật.
- Thức ăn tinh khiết: Thức ăn gồm các thứ hương hoa vô cùng tinh khiết và thù thắng hơn ở cả cảnh trời. Khi muốn ăn, chén bát thất bảo tự nhiên hiện ra với trăm thức ăn uống đầy đủ. Cách ăn không như ở cảnh giới chúng ta, mà chỉ bằng tác ý và bằng mắt thấy tai nghe, tức thời tự nhiên bảo mãn. Ăn xong, thức ăn tiêu hóa; đến giờ ăn sau, những thức ăn mới lại tự nhiên hiện ra như trước.
- Y phục tùy niệm: Y phục của nhân dân tùy niệm tùy hiện, không cần may, cắt, giặt, nhuộm.
- Chim biết thuyết pháp: Các thứ chim ở cõi này đều là hóa thân của đức Phật A Di Đà. Ngài biến hóa ra các thứ chim tạp sắc kỳ diệu như Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tầng già, Cọng mạng, chim Phù, chim Nhạn.v.v... ngày đêm sáu thời, kêu tiếng hòa nhã. Tiếng ấy giảng giải pháp Ngũ căn, Ngũ lực, Bảy phẩm bồ đề, Tám pháp chánh đạo.v.v... Khiến người nghe đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Lược thuật qua chánh báo và y báo thù thắng của cõi Tịnh độ để thấy được công sức tu hành và hạnh nguyện độ sinh của chư Phật thật không thể nghĩ bàn.
Cõi Tịnh độ với đầy đủ tiện nghi khiến cho chúng sinh ở cõi nước đó không còn lo nghĩ đến sự ăn uống, tài sản…vì khắp nơi đều là bảy báu, mọi người sống chan hòa cùng chư Bồ tát, Thanh văn. Toàn cõi đều là pháp âm vi diệu, nghe pháp này khiến chứng ngôi bất thoái vĩnh viễn không còn luân hồi. Trên đây chỉ dùng ngôn ngữ hạn cuộc thế gian để phô diễn chút nhỏ nhoi công đức bao la của cảnh Tây phương. Chúng sinh không nên dừng lại ở đây, phải nỗ lực tiến tu để chứng nhập cái vô cùng của công đức Phật, như người uống nước nóng lạnh tự biết, không cần phải khổ công tính toán so lường. (Còn nữa)