;
Bà Gabriela Frey
Lời giới thiệu của người dịch
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
Bà Gabriela Frey tu tập theo Phật giáo Tây Tạng, gốc người Đức nhưng lưu ngụ trên đất Pháp, là một nhân viên cao cấp trong Quốc hội Âu Châu từ năm 1989, đồng thời cũng là Chủ tịch Ủy ban "Phật giáo và người Phụ nữ" (Buddhism and Women) trong Liên đoàn Phật giáo Âu Châu (EBU/European Buddhist Union), và cũng là Chủ tịch và Sáng lập viên chi nhánh Pháp của Hiệp hội Sakyadhita Quốc tế.
Bài thuyết trình trên đây nêu lên sự tranh đấu thật tích cực của các nữ tu sĩ Phật giáo tại các nước Tây Phương ngày nay, nhằm đòi hỏi sự bình đẳng giữa những người tu hành nam và nữ giới, không những tại Âu Châu mà cả trên toàn thế giới. Sự hăng say của họ cũng phản ảnh phần nào sự sinh hoạt của nền Phật giáo son trẻ nhưng nhiều hứa hẹn và tràn đầy sức sống tại phương Tây. Dầu sao thì bài thuyết trình này cũng cho thấy rõ ràng là không nhằm biểu lộ cái tôi của diễn giả, cũng không nhằm mang lại một chút "thích thú" mà người đọc có thể chờ đợi, mà là một bài nghiên cứu công phu đúng nghĩa của nó, giúp chúng ta suy nghĩ và hành động.
Trong bài thuyết trình này bà Gabriela Frey sẽ lần lượt trình bày về ba chủ đề:
1- Thái độ của Đức Phật và những người Phật giáo đối với phụ nữ
2- Sự tương quan giữa người phụ nữ, bối cảnh chùa chiền, các nam tu sĩ và vấn đề thụ phong.
3- Quan điểm của một nữ tu sĩ về Phật giáo
Đây cũng là bài thứ 5 trong loạt bài "Phật giáo và người phụ nữ":
Bài 1: Phật giáo và người phụ nữ: một sự nghịch lý hay mâu thuẫn (Philippe Cornu)
Bài 2: Phụ nữ và nữ tính trong Phật giáo (Dominique Trotignon)
Bài 3: Con đường của sự quyết tâm (Ilan Dubosc)
Bài 4: Tenzin Palmo: Một nữ du-già nơi xứ tuyết (Dominique Dutet)
Bài 5: Phụ nữ và Phật giáo (Gabriela Frey)
Bà Gabriela Frey và các ni sư Tây Tạng trên miền bắc Ấn
***
Phụ nữ và Phật giáo
(Femmes et Bouddhisme)
Gabriela Frey
1- Thái độ của Đức Phật và những người Phật giáo đối với phụ nữ
Vậy giáo huấn của Đức Phật là gì?
Không được gây ra điều tai hại
Thực thi những điều lợi ích
Tinh khiết hóa tâm thức mình
Đấy là giáo huấn của Đức Phật.
Giáo huấn ấy hướng vào tất cả chúng sinh, không phân biệt một chúng sinh nào. Đức Phật vạch ra con đường mang lại sự giải thoát tối thượng, vả trên con đường đó tất cả mọi người - nam và nữ - đều có thể bước theo.
"Chỉ có Cỗ xe mới thật sự là quan trọng / Dù là nam giới hay nữ giới / Bất cứ ai biết xử dụng Cỗ xe / sẽ đạt được Niết bàn" (Kinh Samyutta Nikaya, I, 5, 6) (Cỗ xe ở đây có nghĩa là Dhamma/Dharma/Đạo Pháp, Giáo lý của Đức Phật).
Theo Đức Phật thì đời sống tâm linh chỉ có thể trọn vẹn khi nào những người tu hành nam và nữ, tất cả đều được thụ phong trọn vẹn và đầy đủ, kể cả những Phật tử tại gia nam và nữ (ghi chú 1) (xin lưu ý các ghi chú có đánh số thứ tự là các ghi chú của bà Gabriela Frey).
Đức Phật dạy rằng: "Khi nào người nam tu sĩ biết giữ gìn đạo đức, người nữ tu sĩ phát huy được một trí tuệ dồi dào, các đệ tử tại gia (nam và nữ) phát động được lòng tin vững chắc, thì khi đó Tăng đoàn mới sáng chói được, bởi vì chính họ là ánh sáng của toàn thể Tăng đoàn" (Anguttara Nikaya) ("Tăng đoàn" theo định nghĩa trong kinh sách gồm có bốn thành phần: những người xuất gia nam và nữ và những người tại gia nam và nữ).
Tội tổ tông của bà Ê-va (péché originel/original sin, là một khái niệm căn bản của Ki-tô giáo, dùng để giải thích một số các sự "phi lý" trong xã hội nhằm áp đặt một số các quan điểm "đạo đức" cho con người) là nguyên nhân chính yếu nhất đưa đến sự phân chia giai cấp giới tính trong Ki-tô giáo, tội này không hề có trong Phật giáo. Cái "tội" khiến con người bị tống cổ ra khỏi thể dạng tạm gọi tương tự như thiên đường (của Ki-tô giáo), được giải thích trong kinh "Aggañña-sutta" (của Phật giáo). Bản kinh này là một trong số các bản kinh hiếm hoi trong kinh điển nòng cốt của Phật giáo (tức các kinh trong Kinh Tạng) giải thích về "nguồn gốc của mọi sự vật ". Trong giai đoạn khởi nguyên, chúng sinh nhất thiết chỉ là các thể dạng tâm thần, không mang giới tính nào cả. Kinh này nêu lên quá trình của một sự diễn tiến cho thấy các sự vật và sự tách biệt giới tính đã xảy ra "như thế nào", nhưng không giải thích là "tại sao".
Học giả Phật giáo Dominique Trotignon là một trong các tác giả của quyển "La femme" ("Người phụ nữ") (ghi chú 2) nói về vị thế của người phụ nữ trong các tôn giáo khác nhau, đã trích dẫn bản kinh trên đây và đưa ra lời kết luận như sau: "Lúc khởi thủy không có sự phân chia thứ bậc (hierarchy) nào về giới tính, cũng không cho thấy một ưu thế nào đối với nam giới: sự tách biệt giới tính trước đây chưa có, nay bắt đầu hiện ra như là một hiện tượng, tương tự như tất cả các hiện tượng khác, và cũng chỉ là kết quả tạo ra bởi sự tiến hóa, phát sinh từ một sự tạo dựng mang tính cách phân biệt nhị nguyên (dualistic differentiation/sở dĩ một sự tách biệt xảy là do "hành động" hay "ý nghĩ" phân biệt làm phát sinh ra nó), theo một quy trình giống hệt với quy trình phân chia tế bào (theo sự hiểu biết khoa học ngày nay)! Và đấy cũng chính là "quy luật tự nhiên của mọi sự vật" (order of things): có nghĩa là sự hiển hiện của mọi hiện tượng (dhamma/pháp) cũng chỉ là kết quả phát sinh từ một số điều kiện cần thiết tạo ra nó khi đã hội đủ, và các điều kiện này thường là liên hệ đến các tác động của sự thèm muốn (desires/thèm khát, tham lam, hám dục). Các sự thèm muốn ấy sẽ không khỏi tạo ra cho chúng sinh những sự thèm muốn khác, và các sự thèm muốn này đều mang tính cách nhị nguyên (đối nghịch): chẳng hạn như bám víu và ghét bỏ, ngạo mạn và khinh miệt, quyến rũ và chán ghét.... Chính vì thế mà một hệ thống phức tạp gồm các "quy ước" khác nhau dần dần được hình thành và biến đổi với thời gian (trước một cử tọa gồm các thành viên của một hiệp hội của tín ngưỡng Ki-tô giáo, bà Gabriela Frey đã mạnh dạn trình bày về quan điểm không chấp nhận sự "sáng tạo" của Phật giáo, và chỉ xem mọi hiện tượng đều phát sinh từ một số điều kiện tạo ra chúng một khi hội đủ. Các điều kiện này thường là liên hệ đến các yếu tố nội tâm như ghét bỏ, bám víu, thèm khát... tạo ra tính cách nhị nguyên - chủ thể và đối tượng - đưa đến các thể dạng đối nghịch. Tác giả Dominique Trotignon giải thích cặn kẽ và chi tiết hơn về bản kinh này trong bài thứ hai thuộc loạt bài "Phật giáo và người phụ nữ". Tương đối it người chú ý đến bản kinh này, phải chăng là vì cách giải thích "quá xưa" về nguồn gốc hiển hiện của mọi sự vật, thế nhưng nếu phân tích thật kỹ thì chúng ta sẽ nhận thấy nhiều nét rất gần với khoa học và cả triết học ngày nay).
Theo giáo huấn của Đức Phật thì khi nào chúng ta vẫn còn bị chi phối bởi tầm nhìn mang tính cách nhị nguyên (tôi và kẻ khác, trắng và đen, v.v.) thì khi đó chúng ta vẫn còn tiếp tục bị vướng mắc trong cõi Samsara (luân hồi) và khổ đau. Thể dạng tâm thức sau khi loại bỏ được mọi sự thèm muốn (desires/dục vọng, thèm khát, tham lam...) và các hình thức vô minh khác, sẽ được gọi là Nirvana (Niết bàn). Điều này đúng với tất cả chúng sinh (nam và nữ) (và cả với những người đồng tính luyến ái, hoặc ái nam hay ái nữ), do đó qua một góc nhìn thật lý tưởng thì người ta có thể cho rằng "hiện thực tuyệt đối" chính là thể dạng "phi-đối-nghịch" (non-duality) (sự đối nghịch tạo ra thế giới hiện tượng, che khuất phía sau nó một thế giới khác, không sinh cũng không hủy hoại - nói cách khác là phi-nhị-nguyên - đó là thế giới của "hiện thực tuyệt đối", thế nhưng cũng thật hết sức lạ lùng là cái thế giới ấy cũng chỉ là thể dạng sâu kín, vắng lặng và tuyệt đối của tâm thức con người, bởi vì tính cách nhị nguyên và đối nghịch của những gì xảy ra trong thế giới bên ngoài đều là do sự thèm khát và vô minh bên trong tâm thức con người tạo dựng ra mà thôi).
Đức Phật và cà các chúng sinh giác ngộ khác (Thatagata/các vị Như Lai khác) không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và các nguyên nhân gây ra khổ đau (thèm muốn, bám víu, vô minh, hận thù) trói chặt chúng ta trong chu kỳ bất tận của sự tái sinh. Đức Phật và các vị giác ngộ chỉ có thể chỉ cho chúng ta trông thấy con đường và đưa ra các phương pháp giúp chúng ta biết cách vượt thoát khỏi chu kỳ ấy mà thôi (trong câu trên đây tác giả nêu lên cho biết "Đức Phật và cả các vị Giác Ngộ khác hay Như Lai khác..." là có ý nói lên quan điểm của Đại Thừa: ngoài Đức Phật lịch sử ra còn có các vị Phật khác, tức là các vị Như Lai khác cũng đã đạt được Giác Ngộ. Các vị ấy có thể là Long Thụ, Thế Thân, Tịch Thiên, Đạo Nguyên..., và cả Đức Đạt-lai Lạt-ma ngày nay).
Padhmasambhava (một vị Thầy người Ấn thế kỷ thứ VIII, rất uyên bác đã hệ thống hóa và phát triển Kim Cương Thừa tại Tây Tạng và trong toàn vùng Hy-mã Lạp-sơn) là một vị đại sư Vajrayana (Kim Cương Thừa) đã đạt được giác ngộ (tôi sẽ giải thích thêm về thuật ngữ này trong vài phút nữa) có nói như sau: người phụ nữ cũng có thể có nhiều năng khiếu hơn người đàn ông: "Thân xác con người là một nền tảng giúp phát huy trí tuệ. Thân xác thô thiển dù là của người đàn ông hay của người đàn bà, đều mang một giá trị như nhau trong lãnh vực giác ngộ. Thế nhưng trong trường hợp mà cả hai cùng phát huy được một sự quyết tâm đích thật giúp mình đạt được giác ngộ, thì người người phụ nữ sẽ tiềm năng cao hơn" (ghi chú 3).
Đức Phật Shakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) đưa ra ba thể loại giáo huấn (xin lưu ý qua câu này diễn giả có ý nhấn mạnh là cả ba thể loại giáo huấn sẽ nêu lên duới đây là Hinayana, Mahayana và Vaijrayana, đều là do chính Đức Phật Shakyamuni đưa ra. Đây cũng là quan điểm chung của Đại Thừa Phật giáo, nhất là Phật giáo Tây Tạng và Đức Đạt-lai Lạt-ma):
- Hinayana (còn gọi là Phật giáo của các thời kỳ đầu tiên) (tức Phật giáo Theravada, còn được gọi một cách không chính xác là Phật giáo Tiểu Thừa, Nam Tông, Nguyên Thủy, v.v.): theo phép tu tập của Phật giáo này thì không được làm những điều thiếu đạo đức, phải loại bỏ các xúc cảm bấn loạn và tránh không tạo ra khổ đau cho mình và kẻ khác, hầu giúp mình thoát ra khỏi Samsara (cõi luân hồi) và đạt được sự giải thoát.
- Mahayana (còn gọi là Đại Thừa): theo thừa này thì tất cả chúng sinh đều hàm chứa hạt giống của thể dạng Tâm Thức hoàn hảo và tối thượng (còn gọi là bản thể của Phật) (Phật tính, Như Lai tạng, Chân Như, v.v) cần được triển khai thêm, và đối với mọi sự vật [trong thế giới hiện tượng] thì đều ở thể dạng tương kết (interdependent) (tức là lệ thuộc và tương liên với nhau, không có một hiện tượng nào tự nó độc lập và tách rời ra khỏi các hiện tượng khác. Nên hiểu "hiện tượng" ở đây là tất cả những gì có thể nhận biết và hình dung được thuộc bối cảnh bên ngoài cũng như những gì hiện ra trong tâm thức, chẳng hạn như tư duy, tác ý và xúc cảm, v.v.. Khái niệm về sự tương liên, tương kết và tương tạo là một trong các khái niệm căn bản và chủ yếu nhất trên phương diện lý thuyết của Đại Thừa). Ngoài ra theo Đại Thừa thì người tu tập phát nguyện ước vọng đạt được giác ngộ với mục đích giúp kẻ khác cũng sẽ đạt được thể dạng ấy như mình (đó là Con Đưởng của người Bhodhisattva/Bồ-tát) (đây là khái niệm chủ yếu nhất trên phương diện thực hành và tu tập của Đại thừa).
- Vajrayana: là "Thừa rắn chắc như kim cương" (vajra có nghĩa là kim cương hay tiếng sét, thường dùng để ghép với một từ khác), còn gọi là Tantrayana/Tan-tra Thừa hay Mantrayana/Man-tra Thừa): là một phương pháp giúp người tu tập quán thấy không có gì khác biệt giữa Samsara (Luân hồi) và Nirvana (Niết bàn) (trên phương diện lý thuyết) và sự kết hợp giữa trí tuệ và lòng từ bi (như là một phương pháp) (tức là trên phương diện thực hành) (Ngoài ra trên phương diện căn bản và lý thuyết Kim Cương Thừa chấp nhận và quy nạp tất cả các tông phái và học phái - kể cả Phật giáo A-di-đà, sự khác biệt chủ yếu và đặc thù của thừa này thuộc lãnh vực thực hành nhiều hơn, đó là cách dựa vào một số phương pháp tu tập thật quyết liệt, đòi hỏi thật nhiều quyết tâm và sức cố gắng, giúp người tu tập đạt được sự giác ngộ ngay trong kiếp sống này). Thừa Phật giáo này dựa và các kinh sách tan-tra (là các kinh sách đặc thù của Kim Cương Thừa), chủ trương tận dụng tất cả mọi tiềm năng xúc cảm (khai thác sức mạnh của xúc cảm như là một phương tiện tu tập, đây là một điểm khác biệt rất lớn đối với các thừa khác, nhất là đối với Phật giáo Theravada, chủ trương phải chủ động các xúc cảm không cho chúng tạo ra các thể dạng bấn loạn và khổ đau). Nếu quán thấy được bản chất sâu xa của các thứ cấu hợp tạo ra "cái tôi " (hình tướng, giác cảm, sự cảm nhận, sự tạo tác tâm thần và tri thức) (kinh sách Hán ngữ gọi năm thứ này là ngũ uẩn), thì người ta có thể xử dụng một số các "phương tiện thiện xảo" để tinh khiết hóa và biến cải các thứ ấy (tức ngũ uẩn) trở thành trí tuệ (thiết nghĩ cách xử dụng thuật ngữ "phương tiện thiện xảo"/upaya để chỉ các phương pháp tu tập tích cực của Kim Cương Thừa thì không được thích nghi lắm, bởi vì đối với Thừa này thiết nghĩ phải dùng thuật ngữ "phương tiện quyết liệt" thì mới đúng). Đây là con đường chuyển biến các độc tố trở thành các liều thuốc chữa trị hay các chất xúc tác (catalyseurs/catalysts, đây là một từ hóa học chỉ các chất "trung gian" làm gia tăng một phản ứng hóa học bằng sự "hiện diện" của chúng, nhưng riêng chúng thì không trực tiếp dự phần vào các sự biến đổi hóa học đó). Vì thế cũng thật hiển nhiên là các phép tu tập của Kim Cương Thừa phải cần đến sự giúp đỡ của một vị giáo huấn hay một vị thầy thật giỏi để tránh mọi sai lầm).
Đức Phật thuyết giảng cả 3 con đường trên đây (Hinayana, Mahayana, Vajrayana) nhằm giúp mỗi người - dù nam hay nữ - đều có thể tìm được cho mình một phương pháp thích nghi (có nghĩa là phù hợp với cơ duyên, trình độ, xu hướng và các nghiệp của mình). Đức Phật cũng nêu lên một điều thật quan trọng là phải thận trọng đối với từng người thầy và những lời giảng dạy của họ, xem có thiết thực và giúp gì cho việc thăng tiến trên đường tu tập mang lại sự giác ngộ cho mình, và có gây ra thiệt hại cho kẻ khác hay không (kinh Kalama-sutta).
Đức Phật nhận thấy tất cả chúng sinh đều hàm chứa một tiềm năng ngang nhau trên đường đưa đến giác ngộ, vì thế Ngài đã cho phép tất cả mọi người được gia nhập Sangha (Tăng đoàn) của Ngài (Sangha có nghĩa là tập thể những người từ bỏ [gia đình]), dù họ là nam hay nữ, dù thuộc giai cấp hay sắc tộc nào, không phân biệt một ai.
Cả hai Tăng đoàn nam và nữ giới đều cần đến xã hội thế tục cung cấp các nhu cầu thiết yếu, chẳng hạn như thực phẩm, thuốc men, quần áo, v.v. Các thành phần trong Tăng đoàn ngày ngày phải tự mình đi vào các vùng làng mạc để khất thực, v.v., và đổi lại thì họ phải tụng niệm, đưa ra các lời khuyên và giảng dạy cho người thế tục. Và cũng xin nhắc thêm là trong quá khứ cũng đã từng có những mối dây tương trợ thật khắng khít như thế giữa người tu hành và kẻ thế tục, cả nam và nữ.
Người phụ nữ giữ một vai trò nổi bật trong cuộc đời của Đức Phật. Mẹ của Ngài qua đời rất sớm sau khi sinh ra Ngài và người dì là Mahaprajapati (Ma-ha Bà-xà Ba-đề) đã trở thành mẹ nuôi của Ngài. Vợ Ngài là Yasodhara (Da-du Đà-la) hạ sinh một người con trai là Rahula (La-hầu-la). Sau khi từ bỏ cuộc sống vương giả của một thái tử thì Ngài ra đi khắp nơi trên đất Ấn hầu tìm một giải pháp mang lại sự giải thoát tối thượng. Sau một thời gian tu tập với phương pháp hành xác thật khắc nghiệt, Ngài trở nên suy nhược, không còn sức thiền định được nữa, thì bỗng nhiên có một người con gái là Sujata (Tu-xà-đa) hiến dâng Ngài một bát cơm nấu với sữa, nhờ đó Ngài lấy lại sức đi đến Bodhgaya (Bồ-đề Đạo-tràng), ngồi xuống thiền định dưới cội Bồ-đề và đạt được Giác Ngộ.
Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật bắt đầu thuyết giảng, còn gọi là "khởi động bánh xe Dharma" (Đạo Pháp), và thu nhận đệ tử. Sau khi thành lập Tăng đoàn nam giới được khoảng năm năm, thì Đức Phật bắt đầu thành lập Tăng đoàn nữ giới. Người mẹ nuôi của Ngài là Mahaprajapati, vợ Ngài và rất nhiều phụ nữ khác trong bộ tộc Shakya (tức bộ tộc thuộc giòng họ của Đức Phật), đầu cạo trọc, kéo nhau đi bộ từ Kappilavatthu đến tậ, Vaishali để xin Đức Phật được làm đệ tử của Ngài.
(Kappilavatthu/Ca-tì-la-vệ là kinh đô của vương quốc của bộ tộc Shakya (Thích-ca), ngày nay thuộc lãnh thổ Nepal, nằm sát biên giới Ấn. Vaishali/Vệ-xá-li là một thị trấn nằm bên bờ một nhánh sông Hằng trên lãnh thổ Ấn Độ, về hướng đông nam của kinh đô Kappilavatthu, hai nơi cách nhau khoảng 300km. Thị trấn Vaishali là nơi sinh trưởng và cũng là nơi cư ngụ của một cư sĩ nổi tiếng vào thời đại Đức Phật là Vimalakirti/Duy-ma-cật. Đức Phật thường thuyết giảng tại thị trấn này, và cũng tại nơi này trong lần thuyết giảng cuối cùng Đức Phật cũng đã thông báo với các đệ tử về sự nhập diệt của mình. Một trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, cũng tại nơi này đã diễn ra đại hội kết tập Đạo Pháp lần thứ hai).
Theo truyền thuyết thì người dì của Đức Phật là Mahaprajapati ba lần ngỏ lời xin Đức Phật được gia nhập Tăng đoàn, thế nhưng Đức Phật đều từ chối. Người đệ tử thân cận của Ngài là Ananda (A-nan-đà) động lòng trước những người phụ nữ [thân hành đến tận nơi này] bèn cất lời hỏi Đức Phật rằng người phụ nữ có thể thực hiện được sự giải thoát và đạt được thể dạng Arhat (A-la-hán/giác ngộ) hay không. Đức Phật cho biết là có, và nhất định là phải như thế. Tuy thế Đức Phật cũng hiểu rằng nếu Ngài cho phép người phụ nữ được trở thành đệ tử của Ngài và được thụ phong trọn vẹn (tôi sẽ giải thích về thuật ngữ này trong một đoạn sau) thì đấy sẽ là cả một cuộc cách mạng xã hội vào thời bấy giờ. Mục đích của Đức Phật không nhắm vào một hình thức cách mạng xã hội nào cả mà chỉ là những lời giáo huấn giúp con người biết là phải làm thế nào để cải biến tâm thức mình.
Điều quan trọng là phải ý thức được hoàn cảnh của người phụ nữ trong xã hội Ấn cách nay đã hơn 2.500 năm (ngày nay cũng chẳng khá hơn). Người con gái phải chịu sự giám hộ của cha cho đến ngày lấy chồng (thường cũng chỉ là một sự giàn xếp), và sau đó là sự giám hộ của chồng. Ngoài việc nội trợ, người phụ nữ không có quyền quyết định về bất cứ việc gì khác (từ muôn thuở cho đến nay truyền thống văn hóa và xã hội Ấn chỉ xem trọng người đàn ông, họ giữ một vị thế chủ yếu trong gia đình và ngoài xã hội, và có quyền trên trước đối với người phụ nữ. Chẳng phải trong kinh sách người đàn ông được gọi là "người chủ gia đình" hay sao?). Người phụ nữ phải lo việc dọn dẹp nhà cửa, bếp núc, sinh con (tốt nhất là sinh con trai) và phải hầu hạ cả gia đình chồng. Cũng xin nhắc thêm là xã hội Ấn là xã hội quản lý bởi những người theo Ấn giáo. Trong gia đình chỉ có người con trai mới có quyền chủ trì các nghi lễ hỏa táng cha mẹ, và đây cũng là một sự vinh dự cho cha mẹ khi qua đời. Có một câu ngạn ngữ nói rằng sinh con gái cũng chẳng khác gì như tưới vườn cho kẻ khác. Của hồi môn trước đây (đôi khi cả ngày nay) là một gánh nặng cho gia đình (nhà nghèo hoặc là của hồi môn ít ỏi thì sẽ khó mà tìm được tấm chồng). Tóm lại người phụ nữ chẳng có giá trị gì, và cũng chẳng có gì là thuộc phần mình cả.
Đối với người phụ nữ, quyết định chọn kiếp sống không nhà, ra đi một mình làm kẻ ăn xin, bên cạnh không có người đàn ông nào chỉ huy mình, tự lo toan mọi việc một mình, thì dù mục đích có cao quý đến mấy đi nữa - có nghĩa là giúp mình bước vào con đường đưa đến giác ngộ - thì đấy cũng sẽ là một quyết định vô cùng táo bạo, phản ảnh một hình thức cách mạng vô song vào thời bấy giờ. (Cách nay khoảng 2.500 năm, và cũng có thể là trước cả Đức Phật, chỉ có đạo Ja-ïn là công nhận các tu sĩ nam và nữ ngang hàng nhau).
Theo tôi thì Đức Phật có thể đã nghĩ rằng Tăng đoàn vừa mới được thành lập, các đệ tử thì cũng mới chập chững bước vào con đường, do đó Ngài lo ngại cho những người phụ nữ không đủ sức chịu đựng sự nhọc nhằn (khất thực, thiếu thốn, sống trong rừng, xa làng mạc. Phật giáo mới bắt đầu phát triển, người thế tục cúng dường còn ít ỏi, chưa có các tịnh xá do người thế tục xây dựng để cúng dường Tăng đoàn làm nơi tạm trú). Dù ý thức được tiềm năng rất cao của người phụ nữ, thế nhưng Đức Phật không muốn một ai trong số họ phải chịu cực khổ. Tuy nhiên, Đức Phật cũng đã chấp nhận thụ phong cho họ, nhưng Ngài cũng đòi hỏi họ phải chấp hành "tám Garudharma", tức là tám "Điều kiện Trọng đại", nhằm buộc các nữ tu sĩ (bhikkhuni/tỳ kheo ni) phải lệ thuộc vào các nam tu sĩ (bhikkhu/tỳ kheo) (trước hết là để phù hợp với thói tục và truyền thống trong xã hội, và sau đó cũng là một cách bắt buộc người tỳ kheo nam gìới phái có trọng trách chăm lo cho người tỳ kheo ni).
Thế nhưng các công cuộc khảo cứu gần đây của Bhikkhu Analoya và các khảo cứu gia khác cho thấy điều này còn là cả một nghi vấn, vì theo họ "Tám Garudharma" (tám "Điều kiện Trọng đại") thật ra cũng chỉ được thiết đặt vào các thời kỳ hậu Đức Phật (ghi chú 1, trang 141). Thiết nghĩ cũng chỉ cần nêu lên điều kiện thứ nhất và thứ năm [trong số tám điều kiện trên đây] cũng đã đủ cho thấy những gì khắt khe mà bà Mahaprajapati (mẹ nuôi của Đức Phật và cả các phụ nữ khác) phải chịu đựng:
- Một nữ tu sĩ dù đã được thụ phong một trăm năm đi nữa thì cũng phải kính cẩn vái chào một nam tu sĩ dù chỉ vừa được thụ phong trong ngày, tức là phải đứng lên, cúi đầu thật tôn kính.
- Một người sa di nữ giới (sa di ni) chỉ có thể được thụ phong trọng đại (nghi thức thụ giới upasampada) để trở thành một tỳ kheo ni, khi nào đã được sự chấp thuận của cả hai Tăng đoàn (nữ giới và nam giới), và đã tuân thủ sáu giới luật (ngoài năm giới luật của người thế tục còn phải tuân thủ thêm giới luật thứ sáu là chỉ được phép ăn mỗi ngày một bữa trước giờ ngọ) trong vòng hai năm.
Bà Mahaprajapati phải học thuộc và hoàn toàn chấp nhận tám điều kiện bắt buộc trên đây trước khi được thụ phong để trở thành người tỳ kheo ni đầu tiên trong đại Tăng đoàn Phật giáo.
Theo truyền thống thì người tỳ kheo (nam giới) phải tuân thủ khoảng 217 giới luật, và người tỳ kheo ni là khoảng 311 giới luật. Lúc đầu khi Tăng đoàn nữ giới mới được thành lập, thì người ty kheo ni cũng chỉ phải tuân thủ 217 giới luật như người tỳ kheo nam giới, thế nhưng dần dần sau đó một số giới luật mới được thiết lập thêm dành riêng cho họ. Cũng nên hiểu rằng mỗi khi có một sự kiện đáng tiếc xảy ra và đem thuật lại với Đức Phật, thì khi đó Đức Phật mới đưa ra một giới luật mới, nhằm ngăn chận không cho việc ấy tiếp tục xảy ra.
Các tỳ kheo và tỳ kheo ni đầy đủ khả năng tiếp nối nhau đứng ra thực thi các nghi thức thụ phong và lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác, qua các dòng truyền thừa được thành lập từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế đến nay. Theo tập tục thì tên họ của những người được tiếp nhận các nghi thức thụ phong trong các dòng truyền thừa đều được ghi chép cẩn thận. Điều này cũng phải được áp dụng đối với các vị giảng dạy giáo lý và các vị luyện tập thiền định. Do đó nếu một dòng truyền thừa bị gián đoạn, thì giáo huấn và các nghi thức thụ phong cũng sẽ bị gián đoạn theo. Trong trường hợp may mắn hơn thì dòng truyền thừa bị gián đoạn cũng có thể được tiếp tục sau đó bằng cách truyền sang cho một dòng truyền thừa khác, nếu không thì cũng sẽ vĩnh viễn chấm dứt.
Đối với việc thụ phong toàn diện thì vào giai đoạn đầu tiên có khoảng sáu dòng truyền thừa tất cả (tức là các học phái hình thành sau khi Đức Phật tịch diệt hội đủ tư cách để thực thi nghi thức thụ phong). Thế nhưng sau đó thì chỉ có các dòng truyền thừa Theravada, Mulasavastavada và Dharmaguptaka là còn lưu truyền đến nay. Và trong số này duy nhất chỉ có dòng truyền thừa Darmaguptaka là còn giữ được truyền thống thụ phong toàn vẹn cho người phụ nữ. Chúng tôi hiện nay đang tranh luận thật gay go xem việc thụ phong toàn vẹn cho người phụ nữ có cần phải nhờ vào dòng truyền thừa Darmaguptaka hay không, hay là chỉ cần cho phép các tỳ kheo nam giới thực thi các nghi thức này, tương tự như vào thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế. Thật ra còn nhiều điểm cần phải giải thích và nêu lên thêm, thế nhưng tôi xin chuyển sang phân đoạn 2 của bài thuyết trình hôm nay (Dầu sao quý vị cũng có thể tìm hiểu thêm qua quyển sách nêu lên trong ghi chú 4).
2- Mối quan hệ giữa người phụ nữ, khung cảnh chùa chiền, các nam tu sĩ và việc thụ phong
Sau khi Đức Phật thành lập xong Tăng đoàn nữ giới; thì các tỳ kheo ni cũng bắt đầu tu tập thật chuyên cần và dần dần trở thành các vị giảng huấn ở các cấp bậc thật cao và được nhiều người thế tục ngưỡng mộ, Nhằm chứng minh điều này tôi xin nêu lên trường hợp tập kinh Therigatha (ghi chú 5), gồm các bài thơ do các các ni sư tiền bối đã trước tác vào các thời kỳ xa xưa.
Chữ Therigatha trong tiếng Pa-li là một từ ghép: chữ theri có nghĩa là những người "phụ nữ xưa" và chữ gatha có nghĩa là các vần thơ (do đó chữ Therigatha có thể dịch là "Những vần thơ của các ni sư tiền bối", Hán dịch là "Trưởng lão ni kệ". Ngoài ra trong Kinh Tạng còn có một tập thơ khác của các vị tăng nam giới gọi là Theragatha, Hán dịch là "Trưởng lão tăng kệ", thera có nghĩa là các "Nam giới lớn tuổi"/Elder, Senior. thế nhưng từ này cũng là một "tuớc hiệu" - Hán dịch là Thượng Tọa - dùng để ban tặng cho các tỳ kheo được thụ phong ít nhất hơn mười năm, do đó thường gây ra một sự lầm lẫn trong kinh sách Hán ngữ. Chữ Theravada hay Theravadin có nghĩa là "Con đường hay học phái của những người xưa" thế nhưng kinh sách Hán ngữ lại dịch là "Thượng Tọa Bộ", không mang một ý nghĩa nào cả! Các sự lầm lẫn đại loại như trên đây rất nhiều. Thiết nghĩ nên dịch kinh sách Pa-li và Phạn trực tiếp sang tiếng Việt, không nên mượn kinh sách tiếng Hán làm trung gian và nhất là tránh bớt các thuật ngữ Hán Việt, bởi vì không những đôi khi là các từ dịch sai, và dù dịch đúng đi nữa thì trong số những người thuộc thế hệ ngày nay không còn mấy ai hiểu đấy là gì), là một tập sách gồm các bài thơ Phật giáo được xem là do các các tỳ kheo ni trong Tăng đoàn trước tác vào các thời kỳ đầu tiên. Tập thơ này đã được ghép chung vào Kinh Tạng bằng tiếng Pa-li (tức giáo huấn của chính Đức Phật ghi chép lại bằng ngôn ngữ Pa-li) (Chữ Pa-li cũng là một sự hiểu lầm của người Tây Phương khi mới khám phá ra Tam Tạng Kinh ở Tích lan. Tiếng Pa-li không phải là ngôn ngữ của bất cứ một nước nào hay một dân tộc nào cả, mà chỉ có nghĩa là các dòng chữ (pathâ) trong Kinh Tạng, và Kinh Tạng thì được ghi chép bằng một thổ ngữ trong vùng Magadha/Ma-kiệt-đà gọi là ngôn ngữ mâgadhikâ gần với tiếng Phạn và dường như cũng chỉ bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch, tức vào thời đại của vua A-dục. Thuật ngữ "pali"/Pa-li duy nhất chỉ thấy nêu lên trong các tập bình giải của Buddhaghosa/Phật Âm vào thế kỷ thứ V, nhằm mục đích phân biệt giữa giáo huấn của Đức Phật và các lời bình giải bằng tiếng sinhalese là thổ ngữ trên đảo Tích Lan, được chuyển dịch sang tiếng Pa-li và ghép chung vào Kinh Tạng. Thế nhưng người Tây Phương lúc đầu thì lại cứ nghĩ rằng Pa-li là một ngôn ngữ xưa của một dân tộc nào đó. Điều này ngày nay đã được các học giả Tây Phương điều chỉnh lại, thế nhưng không mấy người quan tâm, bởi vì cách gọi ngôn ngữ trong Tam Tạng Kinh là "tiếng Pa-li" đã trở thành thói quen). Tập kinh Therighata gồm 73 bài thơ (tất cả là 522 tiết), được xếp vào tập thứ IX trong Khuddaka Nikaya/Tiểu Bộ Kinh. Các tỳ kheo ni trong Tăng đoàn nữ giới khi mới được thành lập, đã trước tác các bài hát (bài kệ) này là để thuật lại những sự kham khổ và những gì mình thực hiện được trên đường tu tập giúp mình đạt được thể dạng arhant (A-la-hán). Các phụ nữ thật quả cảm đó đã thuật lại cuộc đời mình với tất cả sự chân thật và đẹp một cách tuyệt vời. Các câu chuyện trong tập thơ Therighata của các tỳ kheo ni trên đây nêu lên các khía cạnh rất con người và thật sâu kín của họ, khiến con tim chúng ta phải se thắt lại. Quả thật những câu chuyện đó về cuộc đời của họ đã lưu lại những tấm gương thật sống động, thúc dục chúng ta bước theo dấu chân họ (trích dẫn từ Wikipedia).
Tập Therigatha góp phần không nhỏ trong việc nghiên cứu Phật giáo xưa, trong đó có nhiều đoạn khẳng định một cách dứt khoát là người phụ nữ ngang hàng với nam giới về các sự thành đạt tâm linh. Một trong các bài kinh trong Anguttara Nikaya I/Tăng Nhất Bộ Kinh (chương 14, Attadagga Vagga - Các môn đệ ưu tú nhất - Spitzen der Jüngerschaft) (Thanissaro Bhikkhu dịch chương này với tựa là "The Octet Chapter". Nói chung Attadagga Vagga là một loạt bài giảng gồm 16 bài thơ, nêu lên chủ đề về bốn sự bám víu là: dục tính, quan điểm, việc tu tập và giới luật) có đưa ra một danh sách gồm các nam và nữ tu sĩ và cả những người tu hành tại gia nam và nữ, được Đức Phật xem là các đệ tử ưu tú nhất của Ngài trên các phương diện trí tuệ, giáo lý, hoặc đã đạt được các thành quả to lớn, hoặc nhiều phẩm tính khác.
Đức Phật nêu lên trong danh sách này khoảng bốn mươi vị gồm giới tu sĩ và cả những người tu hành tại gia, và trong số này có 13 Tỳ kheo ni và 21 phụ nữ tại gia được xem là siêu việt nhất, chẳng hạn như:
- Tỳ kheo ni Khema: xuất sắc trên phương diện trí tuệ
- Tỳ kheo ni Uppalavanna: thành thạo về các phép thuật (magic)
- Tỳ kheo ni Patacara: thấu triệt tất cả các giới luật quy định cho Tăng đoàn
- Nữ đệ tử tại gia Uttara: trí tuệ cao siêu.
- và rất nhiều phụ nữ khác...
Các tu sĩ nữ giới thường nổi tiếng là rất uyên bác, trí tuệ phong phú và đặc biệt là nhiều khả năng trong việc giảng dạy (ni sư Soma sau khi được nghe Đức Phật giảng một lần là thuộc toàn bộ Luật Tạng, và trong một cuộc đấu lý đã thắng hung thần Mara...)
Theo tôi thì vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, các đệ tử nam giới của Ngài dầu sao đi nữa vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của các quan điểm đã ăn sâu vào thời đại của họ và cả tình trạng vô minh của họ đối với người phụ nữ. Để chứng minh điều này tôi xin nêu lên câu chuyện sau đây về một người đệ tử thân cận của Đức Phật là Sariputra (Xá-lợi-phất), nổi tiếng là người đệ tử bảo vệ sự tinh khiết của Đạo Pháp, và cũng nổi danh khi đưa ra quan điểm cho rằng người phụ nữ nếu muốn đạt được giác ngộ thì trước hết phải tái sinh làm nam giới. Một phụ nữ (thật ra là một vị nữ thần) là Shunyatadevi trong một cuộc đấu lý với Sariputra đã dùng phép thuật chuyển đổi thân xác mình với Sariputra (khiến Sariputra trở thành một phụ nữ và mình thì trở thành một nam giớ). Nhờ đó Sariputra đã hiểu được rằng không có một sự hiện hữu phụ nữ nào mang tính cách thực thể cả (nữ hay nam giới cũng chỉ là các đặc tính quy uớc) và có thể biến đổi khác hơn. Cách giảng dạy của người phụ nữ ấy, tức là vị thần linh nữ giới ấy, không dựa vào lý thuyết mà là sự quán thấy trực tiếp: đó là Tánh Không của cái ngã và cả đối tượng của sự quán thấy (tức là các cấu hợp tạo ra cái ngã, đã nói đến trên đây) (cái ngã của mình cũng chỉ là một sự trống không, nam hay nữ cũng chỉ là các thành phần của năm thứ cấu hợp/ngũ uẩn, do đó không hề hàm chứa một thực thể nào cả và tất cả cũng chỉ là trống không) (ghi chú 1, tác giả Lily Besillay, tr. 41).
Từ thời đại của Đức Phật đến nay đã từng có không biết bao nhiêu phụ nữ tiếp tục nêu lên một cách thật giản dị qua bản thân họ những lời giảng huấn thật siêu việt - đôi khi rất trực tiếp, hướng thẳng vào chủ đích - cho thấy CÁ THỂ cũng chỉ đơn giản là một sự biểu hiện của tâm thức, ẩn chứa bên trong thân xác, nhưng không phải là bên trong giới tính (cá nhân con người biểu trưng bởi thân xác nhưng không biểu trưng bởi giới tính).
Ngay từ thời đại của Đức Phật, các đệ tử của Ngài và cả xã hội Ấn cũng đã bắt đầu chuyển hướng đôi chút, mang lại một tầm nhìn khá hơn về người phụ nữ. Thế nhưng tiếc thay, toàn bộ cơ chế xã hội và cả các đệ tử của Đức Phật lúc bấy giờ cũng vẫn chưa chữa lành được tình trạng vô minh, định kiến, chủ trương trọng nam khinh nữ, cũng như các thói quen tệ hại khác của mình (theo diễn giả tức tác giả của bài này, thì Đức Phật luôn chủ trương sự bình đẳng và ngang hàng giữa người phụ nữ và nam giới trên phương diện tu tập, thế nhưng các đệ tử của Ngài thời bấy giờ và cả sau này, không theo kịp tư tưởng của Ngài. Các hình thức kỳ thị giới tính trong Phật giáo là do họ đưa ra dưới ảnh hưởng của xã hội, và hầu hết là những sự thêm thắt hậu Đức Phật).
Sau khi Đức Phật tịch diệt, các đệ tử (nam giới) tổ chức các lần kết tập nhằm mục đích hệ thống hóa và bảo toàn di sản mà Đức Phật đã lưu lại:
- Lần kết tập thứ nhất sau khi Đức Phật tịch diệt đã diễn ra tại Rajagrha (Vương xá thành) vào thế kỷ thứ V trước Tây Lịch (nhằm thiết lập các kinh điển nòng cốt của Phật giáo là Tipitaka/Tam Tạng Kinh) (sau khi Đức Phật tịch diệt khoảng một năm).
- Lần kết tập thứ hai được tổ chức tại Vaishali (Vệ-xá-li) năm 367 trước Tây Lịch.
- Lần thứ ba, năm 250 trước Tây Lịch tại Pataliputra (Hoa Thị Thành) (và đã bắt đầu xảy ra các bất đồng chính kiến đưa đến sự hình thành ít nhất là hai nhóm: nhóm thứ nhất gồm các người xưa gọi là Sthavira, và từ nhóm này đã phát sinh ra Phật giáo Theravada ngày nay, nhóm thứ hai là Mahasanghika, còn gọi là nhóm "đa số", chủ trương sự cải tiến.
Và cũng vào thời gian này (tức là sau lần kết tập thứ ba) sau khi Phật giáo được đưa vào Tích Lan (nhờ con gái của vua Ashoka/A-dục là Sanghamitta) và cũng tại nơi này lần đầu tiên Giáo Huấn của Đức Phật đã được ghi chép bằng chữ viết (tiếng Pa-li).
Sự truyền bá Phật giáo tại Ấn Độ:
Nếu nhìn gần hơn vào lịch sử lâu dài của Phật giáo thì sẽ không khó để nhận thấy là người đàn ông đã dành ra thật nhiều công sức trong việc biến đổi (modify/sửa đổi) giáo huấn của Đức Phật (các vị thánh nhân trong lịch sử Phật giáo đứng ra bình giải, quảng bá Đạo Pháp, soạn thêm "kinh sách", triển khai các khái niệm, thành lập các tông phái, học phái, chi phái... có thể nói hầu hết trong số họ là nam giới). Họ che đậy (trong nguyên bản là chữ déguiser/disguise/hóa trang, ngụy trang, che dấu) (cố tình hay vô tình) các thói quen không tốt đẹp của mình dưới các nhãn hiệu truyền thống, đôi khi kể cả dưới hình thức các quy luật (règlements/regulations) của tự viện, nhằm mục đích củng cố uy quyền. Và người phụ nữ lại thêm một lần nữa rơi vào vị thế lệ thuộc và tụt xuống một cấp bậc thấp hơn, bất chấp những sự thành đạt và các kết quả thượng thặng mà họ đã đạt được trên đường tu tập tâm linh của họ.
Các cuộc xâm lược và chiến tranh liên tiếp xảy ra ở Ấn đã khiến cho Phật giáo dần dần suy yếu kể từ thế kỷ thứ VI và VIII sau Tây Lịch (Phật giáo gần như hoàn toàn biến mất ở Ấn vào cuối thế kỷ XII). Ngày nay chỉ còn