;
Quang lâm chứng minh và tham dự lễ có HT. Thích Như Thọ - Thành viên HĐCM GHPGVN, Tọa chủ chùa Long Thơ (Tp Đà Nẵng); HT. Thích Giải Trọng - Chùa Long Tuyền (Tp Hội An) cùng Chư Tôn đức Tăng Ni trên địa bàn Tỉnh Quảng Nam và Tp Đà Nẵng.
Ni sư Thích Nữ Hạnh Đạo pháp hiệu Chủng Hoa, đời thứ 42 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh, sinh năm 1943. Từ nhỏ, Ni sư được song thân cho quy y với Hòa thượng Thượng Chơn Hạ Phát và được cho pháp danh Như Tiến. Đến năm 1964, chí xuất trần phát khởi, nhân xuyên xuất gia hội đủ, Ni sư được Hòa thượng Bổn sư gửi về tu học tại chùa Bảo Thắng (hội An), được Ni trưởng Thích Nữ Như Hường nhận làm đệ tử.
Năm 1967, Ni sư thọ Sa di Ni giới tại chùa Bảo Quang (Đà Nẵng) do Sư Bà Thích Nữ Đàm Minh làm Đàn Đầu. Từ năm 1970 - 1972, Ni sư theo học tại Ni viện Diệu Đức (Huế). Năm 1971 thọ Thức Xa Ma Na cũng tại chùa Bảo Quang. Đến giữa năm 1972 chuyển vào tu học tại Ni trường Dược Sư (Sài gòn). Đầu năm 1975, Ni sư được Bổn sư cho đăng đàn thọ Tỳ kheo Ni giới ở Đại giới đàn Hòa Bình tại chùa Từ Nghiêm-Sài Gòn do Ni trưởng Thích Nữ Như Chí, lúc bấy giờ là Vụ trưởng Ni bộ Bắc Tông Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm Đàn đầu truyền giới.
Sau khi đất nước thống nhất, Ni sư về lại chùa Bảo Thắng, sinh hoạt và học tập dưới sự chỉ dẫn của nhị vị Ni trưởng. Giữa năm Bính Thìn (1976), vì nhu cầu Phật sự và thể theo yêu cầu của đạo hữu Phật tử địa phương, Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đã cử Ni sư về đảm nhận trú trì chùa Hòa Quang, nơi quê hương sanh trưởng của mình.
Từ những ngày đầu trở về ngôi chùa quê hương với bao khó khăn chồng chất, chùa chiền bị chiến tranh làm hư hoại gần như toàn bộ, Ni sư đã không ngại khó nhọc, vượt qua mọi thử thách chướng duyên để tái tạo ngôi chùa Hòa Quang này tạm bằng vách phên tre, lợp tôn đơn sơ đủ để có nơi thờ Phật, còn tăng xá ở và nơi sinh hoạt của Phật tử chỉ làm bằng tranh tre vách đất.
Năm Quý Hợi (1983), nhận thấy chùa ngày càng xuống cấp trầm trọng, Ni sư đã phát nguyện trùng tu ngôi chánh điện. Công việc trùng tu kéo dài đến cuối năm 1983 mới hoàn tất nhưng cũng rất khiêm tốn theo điều kiện cho phép lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, Ni sư dần dần xây dựng đông xá, tây đường để Ni chúng có điều kiện tu học.
Năm Đinh Sửu (1997), do tách tỉnh theo đơn vị hành chính, Ban trị sự Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Quảng Nam được thành lập, Ni sư được mời làm thành viên Ban trị sự, nhiệm kỳ I (1997-2001) và nhiệm kỳ II (2002-2007) đồng thời đảm nhiệm chức vụ Phó Ban Đại diện Phật giáo huyện Duy Xuyên nhiệm kỳ I từ năm 1997 đến năm 2001.
Giới đức trang nghiêm, Ni sư đã được cung thỉnh làm dẫn thỉnh sư tại đại giới đàn Minh Giác năm Canh Thìn (2000) và đệ ngũ tôn chứng đại giới đàn Ân Triêm năm Giáp Thân (2004) do Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam tổ chức.
Năm Tân Tỵ (2001), nhận thấy chánh điện chùa lại xuống cấp, Ni sư phát nguyện đại trùng tu toàn bộ. Lần trùng tu này có tính cách quy mô nên đòi hỏi một nguồn kinh phí lớn. Với điều kiện hạn chế của địa phương nên Ni sư không quản ngại khó khăn, đi khắp nơi để xin sự hảo tâm giúp đỡ của Phật tử ở các tỉnh thành trong nước và nước ngoài. Công việc trùng tu còn đang dang dở thì Ni sư lâm bệnh, nhưng tâm nguyện Sư vẫn kiên định và lễ khánh thành được tổ chức vào ngày 27 tháng 2 năm Bính Tuất (tức 28/3/2006) trong niềm hân hoan của chư tôn đức và toàn thể Phật tử gần xa.
Tuy nhiên sau hơn một năm, bệnh cũ của Ni sư lại tái phát ngày một trầm trọng, mặc dù đã được môn đồ tận tình chữa chạy nhưng vẫn không qua khỏi. Ni sư đã xả bỏ huyễn thân vào lúc 20 giờ 50 phút ngày 14 tháng 8 năm Đinh Hợi, nhằm ngày 24/9/2007 hưởng thọ 65 tuổi với 32 hạ lạp.
Tin - ảnh: Ngọc Toàn