;
Những ước vọng của kiếp nhân sinh và những khổ đau - mặt trái của ước vọng không thành của con người - đều được gói trọn trong bổn nguyện của A Di Đà. Bổn nguyện đó là Ánh sáng Vô ngại (Vô Ngại Quang Như Lai) có thể soi thấu đến những chỗ tối tãm nhất trong lịng người và xuyên qua những chất cứng nhất trong thế gian, cái bản ngã cứng đặc kiên cường và đen tối, và như thế, năng lực chuyển hóa của bổn nguyện là vô hạn. Bổn nguyện là tấm lưới của ánh sáng và đại bi trùm khắp chúng sinh ba cõi, chỉ cần một niềm tin chân thành là tấm lưới ấy hoạt động để đưa chúng ta đến với ánh sáng tỏa chiếu tình thương vô tận.
48 lời nguyện ấy đã
thành tựu từ rất lâu xa,
khi Bồ tát Pháp
Tạng thành
Phật đến nay đã
được mười kiếp (một kiếp gồm 4.320.000.000
nãm, theo cách tính của Aán Độ thời cổ, y cứ lời của Đức Phật Thích
Ca dạy trong
kinh A Di Đà (Xá Lợi Phất! A Di
Đà Phật thành
Phật dĩ lai ư kim thập kiếp). Vì lý
do đó mà những lời nguyện trên được gọi là bổn nguyện. Chúng
ta đang sống trong
bổn nguyện, trong
ánh sáng vô lượng và đời sống vô lượng mà
theo ý niệm nhị nguyên của con người, chúng
ta có thể hiểu rằng, ánh
sáng vô lượng là trí
tuệ và đời sống vô lượng là tâm
đại bi của A Di
Đà.
Cái làm cho chúng sinh tiếp xúc được với bổn nguyện của A Di Đà
là đức tin.
Trong 19 lời nguyện nhắm đến tất cả chúng
sinh trong vũ trụ ấy, đều mang nội dung của đức tin. Đức tin ấy có thể hình
dung qua những yếu tố sau đây:
· Một ý thức sâu sắc về tính hữu hạn, thất thường, bất định, mâu
thuẫn và phải chết của con người\. Nếu chỉ đích
danh hơn, những tính
chất hữu hạn, mâu
thuẫn nội tại ấy là đặc tính của cái ngã
và những hoạt động phiền não của nó. Và
trong tình trạng hiện thời, toàn bộ đời sống con người dựa vào cái
ngã và những hoạt động tạo nghiệp của nó, hậu quả tất yếu là những khuyết điểm, lầm lỗi và khổ đau mà
chúng ta gọi là sanh
tử. Nhưng để thoát khỏi cái nghhiệp đó, với phần đông
con người là
không thể, vì làm
bất cứ điều gì, dù
tu hành để giải thoát
hay làm tốt cho người khác
thì vẫn nằm trong sự giật dây của cái tự ngã, chỉ làm cho
cái ngã, phụng sự cái tự ngã. Với con người, không
phải bao giờ cũng có
thể có vị tha thực sự, lợi mình lợi người thực sự, vì
thông thường có cái
ta phản trắc luôn ở trung
tâm của mọi hành động. Không
giải quyết được khổ đau của mình, đồng thời chúng
ta cũng gieo rắc khổ đau cho
người khác.
Nói theo hình ảnh của kinh
Pháp Hoa, chúng ta là những đứa con khốn cùng,
dù có may mắn nghe được cha
mình giàu có đến trùm khắp vô vàn
thế giới đang ở nơi xa kia
chờ mình thì
cũng không đủ sức trở về, dù có
người dẫn dắt. Đôi
chân con người đã mỏi mệt vì khổ đau của sinh tử, trí óc
đã quá nặng nề vì những màn ảo hóa Ẩ và chỉ khi thấy rõ sự hữu hạn, nhỏ bé và bất lự c của mình,
thấy sự mâu thuẫn nằm trong
chính nền tảng của bản thân, con
người khổ đau đó mới mở mình ra
trước lời kêu gọi của đại nguyện của Phật A Di
Đà.
· Chúng ta không biết làm gì hơn là phó thác, hiến mình và tin cậy. Khi tự lực trong mức độ chúng
sinh chỉ là thất thường, mâu
thuẫn nội tại, chính
lúc đó, bắt đầu sự lắng nghe
sâu xa tiếng kêu gọi của bổn nguyện, sự chấp nhận phó
thác cho công việc đại bi của Phật A Di
Đà. Một chuyển hóa bắt đầu xảy ra, con
người từ bỏ những bất toàn,
những xung đột mâu thuẫn nội tại của mình, để đi vào
nguyện lực của Đức A Di
Đà. Do đó con người thấy ra tha
lực.
· Không chỉ để đối phó với khổ đau, đức tin
cũng là một mong mỏi bất tuyệt về một cõi
không có ba đường ác (lời nguyện thứ nhất), thậm chí
không có cả một danh từ để chỉ một sự ác nào
(lời nguyện thứ 16).
Tích cực hơn, đức tin cịn là một tình cảm nồng nhiệt đối với tất cả những gì đẹp đẽ, thanh tịnh đối với cõi nước, con người lành
thánhẨ của Phật A Di
Đà. Chính sự kính ngưỡng đối với cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà
sẽ chuyển hóa những đam mê
vào cõi dục của chúng
ta, nguyên nhân của những phiền não khổ đau.
· Cuối cùng, đức tin đó
khiến chúng
ta mở tâm thức, mở tấm lịng để đón nhận ánh
sáng của lịnh bi A
Di Đà. Trong các kinh Nikàya, có thuật lại rằng khi Đức Thích
Ca giác ngộ, Ngài
nhìn lại thế gian,
quan sát chúng sinh như những hoa sen,
có cái còn nằm trong
bùn, có cái lên trong nước, có cái đã ra khỏi nước và có
cái bắt đầu nở hoa, thấy thế, Đức Phật đã quyết định chuyển bánh xe
pháp để đem lại lợi lạc cho
chúng sinh. Với đức tin vào
Phật A Di Đà
và năng lực đại bi trùm
khắp của Ngài,
đoá hoa sen tức Phật tánh của mỗi người sẽ vươn lên và
nở hoa
trong ánh sánh vô lượng và đời sống vô lượng.
Đức tin là
cái nối kết con người với lời kêu gọi ngập đầy thương yêu và
ân điển tức là 48 lời nguyện của Đức A Di
Đà với ánh
sáng vô lượng và đời sống vô lượng
tức là bản tính của Đức A Di
Đà. Nhưng sự kêu gọi và sự đáp trả còn thể hiện cụ thể, đó là
niệm danh hiệu
"Nam mô A Di Đà Phật", "Nam mô" là sự trở về trong tâm linh của đưá con cơ nhỡ, lạc loài,
vô phương tự thoát và
"A Di Đà Phật" là quê nhà của nó, sự sống và là
ánh sáng của nó.
Niệm Phật là thể hiện đức tin ấy. Trong
19 lời nguyện nhắm đến các
chúng sinh ở ngoài
cõi Tịnh độ, có đến 14 lời nguyện nói đến
"niệm danh hiệu"
và "nghe danh hiệu". Như thế, danh hiệu A Di Đà
chính là Phật A Di
Đà. Niệm danh hiệu là phương pháp được nói đến nhiều nhất trong
những phương pháp để tiếp thông với Đức Phật. Niệm danh hiệu chính
là đi về Tịnh độ và đi
vào bản tính của Phật, đồng thời làm hiện thân Tịnh độ và bản thân Phật A Di Đà
giữa thế gian.
Như trên đã
nói, niệm danh hiệu được nhắc đến nhiều nhất trong
các đường lối để tiếp cận với Phật A Di Đà
và Tịnh độ. Niệm Phật là để sinh về Tịnh độ, nơi không
có những tranh
chấp mâu thuẫn giữa ta Ố người, ta Ố thế giới, và ta
với chính
ta, những mâu
thuẫn muôn đời không
thể nào giải quyết ở đời sống vận hành
theo chiều hướng tư duy hữu ngã
này.
Niệm Phật A Di Đà
là niệm ánh
sáng vô lượng, do đó
thải trừ bóng tối vô minh
nơi mình.
Niệm Phật A Di Đà
là niệm đời sống vô lượng, do đó
thải trừ sinh tử nơi mình. Như vậy, niệm danh hiệu đúng
nghĩa chính là đang thực hiện sự tịnh hoá.
Nó không chỉ là loại bỏ sự sợ hãi trước bóng tối và cái
chết, mà còn
đưa con người đến với ánh
sáng vô lượng và đời sống vô lượng, nghĩa
là khai mở Phật tánh
trong mỗi người, như Tỳ kheo
Pháp Tạng đã
thành tựu và ứng dụng để tạo thành Tịnh độ trước đây mười a tăng
kỳ kiếp.
Bắt đầu niệm Phật là bắt đầu sự chuyển hoá. Mỗi câu niệm Phật là một lần chuyển hóa. Sự chuyển hoá này
xảy ra tại đây và
bây giờ, thải trừ năm độc tham,
sân, si, kiêu mạn và đố kỵ trong thân tâm mỗi người\. Như thế, con đường đi về Tịnh độ bắt đầu ngay
lúc này và tại đây, bằng danh
hiệu Phật. Lấy một hình ảnh thí dụ của Đại thừa, Phật A Di Đà
ví như một mặt trãng
giữa trời, mà mỗi câu niệm Phật như một chậu nước, mỗi chậu nước có một mặt trãng
trong đó. Niệm Phật đến mức mặt trãng
in hẳn vào
dòng hiện sinh của hành giả, không
còn tách lìa, dù ở đâu và lúc nào. Khi đã thật sự có mặt trăng
Phật thường trực trong
lòng, sự tái sinh
về Tịnh độ khi chết ắt là một tiến trình tất yếu.
Theo Kim Cương thừa, Phật A Di Đà
ở về phương Tây
trong Ngũ Trí Như Lai, là chủ của Liên
Hoa bộ. Thành tố của bộ này là lửa và màu
là màu đỏ. Phật A Di Đà
ngồi trên một tòa sen
do một con
công đội. Con
công ãn thức ãn độc và chuyển hóa
thành màu lông rực rỡ của mình,
càng độc lông
càng đẹp. Bộ Liên Hoa
chuyển hóa
tham dục của cõi này
thành trí tuệ, biến ái dục của cõi dục này
thành từ bi. Bởi thế, khi nào
tham dục - một trong
năm độc - khởi lên,
chúng ta hãy niệm danh hiệu. Khi nào sắp nổi giận, chúng
ta hãy niệm Phật, khi
nào muốn cầu nguyện cho ai
chúng ta hãy niệm Phật.
Danh hiệu Phật có tính
cách của một thần chú
(mantra), một tổng trì
(dharani) thỏa mãn cho
những nguyện vọng xuất thế gian
("nghe danh hiệu tôi, được Vô sanh pháp nhẫn và các môn tổng trì sâu xa" lời nguyện thứ 34) và
những nguyện vọng thế gian
("nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung, sanh ra vào những gia đình tôn qúy" lời nguyện thứ 43),
("nghe danh hiệu tôi, tất cả các căn
không xấu xí, kém
khuyết" lời nguyện thứ 41). Sở dĩ như vậy vì
trong danh hiệu có đủ cả Pháp
thân (Tâm giác ngộ, tâm Phật), Báo thân (Aùnh sáng vô lượng, Thọ mạng vô lượng) và
Hóa thân (sắc thân Phật và cõi
Tịnh độ) của Phật A Di
Đà. Bởi thế khi nào
trong lòng chúng ta từ bi hỷ xả không
sinh khởi, hãy niệm danh hiệu vì danh
hiệu là sự tập trung
thuần khiết nhất của từ bi hỷ xả. Sáu Ba
la mật, nãm
cãn, nãm lực, bảy Bồ đề phần, tám
Thánh đạo phần (kinh A
Di Đà), cho đến đắc Vô sanh
pháp nhẫn, tức con đường Đại thừa chung
cho mọi tông đều có đủ trong
danh hiệu Phật. Chúng
ta cần nhớ rằng trong
danh hiệu có
Chánh báo và Y báo, nghĩa là có cả bản tánh
trí tuệ và đại bi của Đức A Di
Đà, đồng thời có Tịnh độ của Ngài.
Niệm Phật là thả mình vào công cuộc chuyển hóa của bổn nguyện, trút những xác chết của khổ đau phiền não không thể nguôi ngoai vào đại dương của bổn nguyện và để cho đại dương đó chuyển hóa cho. Như Phật Thích Ca đã nói "trong đại dương (Niết bàn) không dung chứa xác chết", đại dương ánh sáng và đại bi của Phật A Di Đà cũng không chứa những phiền não khổ