;
Mùa Đản sinh về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen và nghe ra âm ba quen thuộc “Ta là bậc tối tôn, tối thượng ở đời” (Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi [độc] tôn).
Sự ra đời cũng như tuyên ngôn của Phật đản sinh, bậc vĩ nhân giác ngộ thật khác lạ với người thường. Kinh tạng Pàli ghi nhận sự kiện này là “hi hữu, vị tằng hữu”, hiếm có, chưa từng có: “Bồ-tát khi sanh ra, này Ananda, Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lên tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: ‘Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa’.
Vì rằng, bạch Thế Tôn, con thọ trì sự việc này, bạch Thế Tôn, là một hy hữu, một vị tằng hữu của Thế Tôn” (Trung bộ III, số 123, kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp). Kinh Trường bộ I (số 14, kinh Ðại bổn) cũng ghi nhận tương tự, vì “Pháp nhĩ là như vậy”.
Pháp thoại dưới đây, Thế Tôn cũng xác quyết “Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng”.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có tám bộ chúng, các thầy nên biết. Thế nào là tám? Đó là chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên.
Tỳ-kheo nên biết! Từ trước đến nay Ta đi vào trong chúng Sát-lợi, cùng họ chào hỏi, nói năng đàm luận, cũng không người nào bằng Ta. Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng. Ta ít muốn biết đủ, niệm không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn, thành tựu tinh tấn.
Lại tự nhớ nghĩ, Ta vào trong chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên vương, cùng họ chào hỏi nói năng đàm luận, Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng.
Ta ít muốn biết đủ, ý không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn, thành tựu tinh tấn.
Bấy giờ, trong tám bộ chúng, Ta đi riêng một mình không bạn bè, vì bao chúng sanh làm tàng che lớn. Khi ấy tám bộ chúng không thể thấy đảnh, cũng không dám nhìn mặt, huống gì cùng luận nghị.
Vì sao? Vì ta cũng không thấy trong cõi Trời, cõi Người, trong chúng Ma hoặc Thiên ma, chúng Sa-môn, Bà-la-môn có ai có thể thành tựu tám pháp này, trừ Như Lai không kể. Cho nên Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành tám pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 42.Bát nạn [2], VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.133)
Rõ ràng, vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập không phải dựa vào thần lực hay các năng lực siêu nhiên mà đó chính là sự kết tinh của tu tập Giới Định Tuệ và thành tựu giải thoát.
Chính nhờ “Ta ít muốn biết đủ, ý không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn, thành tựu tinh tấn” đã hình thành nên vị thế “không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng” của Thế Tôn.
Tám pháp kể trên đã đưa Thế Tôn lên hàng tối tôn, tối thượng trong chư thiên và nhân loại. Hàng đệ tử Phật muốn bước lên địa vị làm thầy của trời người thì cần thành tựu tám pháp ấy. Vì thế, “Nên tìm phương tiện thực hành tám pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này” là lời dạy thâm thiết mà hàng hậu học luôn khắc cốt ghi tâm và ứng dụng thực hành.