;
I-THẾ TỘC
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7- 5 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
Sau khi thân phụ quá cố, Hòa thượng theo thân mẫu đi chùa Phước Hậu, làng Đông Hậu, quận Trà Ôn làm lễ cầu siêu trong 7 tuần thất. Duyên xưa gặp lại, mặc dù lúc ấy Hòa thượng chưa biết đạo lý là gì, mà nằn nằn quyết một đòi ở chùa.
Bởi gia đình mộ đạo, nên cụ bà không từ chối nguyện lành của con. Năm ấy Hòa thượng vừa lên 7 tuổi, xuất gia tại chùa Phước Hậu. Sau đó, Hòa thượng được gởi đến chùa Đông Phước, làng Đông Thành, quận Cái Vồn (hiện giờ là quận Bình Minh), theo học với tổ Khánh Anh.
Trong gia đình chẳng những một mình Hòa thượng xuất gia, mà trước vài năm đã có người chị thứ bảy xuất gia. Đó là Sư bà Diệu Kim trụ trì chùa Bảo An, Cần Thơ, xuất gia lúc 17 tuổi. Người anh thứ tám đồng thời xuất gia với Hòa thượng hiện nay là Thượng tọa trụ trì chùa Phật Quang Trà Ôn, pháp danh Tịnh Tâm (Thiện Tâm), hiệu Hoàn Tâm (Hoàn Triều). Kế đó, người anh thứ năm pháp danh Thiện Minh cũng xả tục xuất gia, sau trụ trì chùa Linh Quang tại Rạch Sung, Trà Ôn.
Sau này, lại có những người cháu kêu Hòa thượng bằng chú như Tịnh Nghiêm, Tịnh Thuận và kêu bằng cậu như Bửu Châu, Hoàn Phú cũng lần lượt xuất gia.
Có thể nói rằng đây là một gia đình có nhiều người xuất gia nhất ở vùng này.
II. - THỜI HỌC ĐẠO:
a) Học các trường gia giáo:
Hòa thượng cầu pháp với tổ Khánh Anh được hiệu là Hoàn Tuyên. Từ đó, Tổ được mời dạy những trường gia giáo nơi nào, Hòa thượng đều theo đó học tập, từ chùa Đông Phước lần lượt đến các nơi, sau cùng là chùa Long An. Năm 1931, tổ Khánh Anh lãnh chùa Long An ở Đồng Đế Trà Ôn và khai gia giáo nơi đây. Năm ấy, Hòa thượng đã 14 tuổi, nhập chúng tu học tại chùa này 3 năm.
b) Phật học đường Lưỡng Xuyên:
Đầu mùa hạ năm 1935, Phật học đường Lưỡng Xuyên khai giảng, Hòa thượng xin nhập học tại đây, lúc đó được 17 tuổi và ngay năm ấy, Hòa thượng thọ giới Sa-di. Từ đây Hòa thượng chính thức vào Phật học đường sống theo nếp mẫu mực đạm bạc của đời Tăng sinh tươi trẻ. Sau 3 năm mãn lớp Sơ đẳng nơi đây, Tăng sinh muốn tiến lên phải vận động ra Huế học.
Với chí hiếu học và óc cầu tiến, Hòa thượng nài xin Ban giám đốc Phật học đường Lưỡng Xuyên chấp nhận giới thiệu, và vận động thí chủ ủng hộ tài chính. Kết quả Hòa thượng được mãn nguyện, lo khăn gói lên đường với các pháp hữu: Thiện Hòa, Hiển Thụy, Hiển Không, Chí Thiện, Bửu Ngọc, Giác Tâm. Thế là năm 1938, Hòa thượng được ra Huế học, lúc ấy được 20 tuổi.
c) Phật học đường Báo Quốc:
Sau khi ra Huế, quý Ngài dự học tại Phật học đường Tây Thiên hai năm. Kế đó vào Quy Nhơn ở chùa Long Khánh để đến học Phật pháp với tổ Phước Huệ ở chùa Thập Tháp hết một năm tròn. Các Ngài lại trở ra Huế dự học tại Phật học đường Báo Quốc ngót bốn năm. Sau trường Báo Quốc dời đến tòng lâm Kim Sơn năm 1945.
Lớp học tại đây vừa mãn thì chiến tranh dồn tới. Trường Kim Sơn không duy trì được, nên Hội An Nam Phật Học ủy thác cho quý Thượng tọa Trí Tịnh và Thiện Hoa v.v... mang một số học Tăng vào Nam. Thế là, ngót tám năm dài (1938 - 1945), quý Thượng tọa chịu nhọc nhằn cần mẫn học tập ở đất Thần kinh. Khi trở về mang một hoài bão "Hoằng pháp lợi sinh", để rồi miền Nam bừng sáng do các Ngài mồi ngọn đuốc từ chốn cố đô.
III.- THỜI HÀNH ĐẠO:
1) Khai Giảng Phật Học Đường Phật Quang:
Năm 1945 Hòa thượng hợp tác cùng Hòa thượng Trí Tịnh khai giảng Phật học đường Phật Quang, tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, quận Trà Ôn. Số Tăng sinh đến dự học trên 30 vị. Năm 29 tuổi Hòa thượng thọ giới Tỳ kheo và Bồ-tát tại giới đàn Kim Huê Sa Đéc.
Đến năm 1946 và 1947 thấy tình cảnh chiến tranh của đất nước, thấy Tăng sĩ một phần đã cởi áo cà-sa mặc chiến bào, Hòa thượng Trí Tịnh quyết định dời về Sài Gòn. Phật học đường Phật Quang đã khó khăn lại gặp khó khăn hơn. Một mình Hòa thượng vừa lo dạy học, vừa lo đối phó với hoàn cảnh.
Đối nội, Hòa thượng vẫn kiên trì giữ vững lớp học. Dù gặp nhiều khó khăn, nào chùa bị đốt, học chúng bị phân tán, Hòa thượng vẫn thản nhiên duy trì phần còn lại. Hòa thượng thường nói: "Dù chỉ còn một Tăng sinh hiếu học tôi vẫn dạy đầy đủ như lúc ba mươi người". Quả thật, đến năm 1950, học chúng chính thức của lớp này không quá bốn người. Thế nhưng Hòa thượng vẫn dạy đều như thuở trước.
Đối ngoại, xã hội hiện thời đòi hỏi người dân phải làm công tác thật nhiều. Để bảo bọc cho Tăng chúng yên tâm tu học, Hòa thượng mở những lớp học trẻ con, do Tăng sinh đảm trách.
Đồng thời Hòa thượng mở trạm y tế, để Tăng Ni thay nhau thuốc men giúp đỡ đồng bào. Mỗi ngày Tăng chúng làm công tác dạy học, chích thuốc trọn buổi sáng, buổi chiều tất cả đều vào lớp học kinh điển.
Hòa thượng lại mở những lớp học "Bình dân" dạy ban đêm để "chống nạn mù chữ". Lớp học này chỉ trong vòng 15 hôm, là học viên đọc và viết được. Sự học có kết quả nhanh chóng ấy là do Hòa thượng có sáng kiến soạn tập sách "Vần Chữ O".
Đích thân Hòa thượng chích thuốc, dạy lớp "Bình dân". Thế mà Hòa thượng vẫn thấy chưa đủ, Ngài lại xoay qua học chẩn mạch cho toa. Hòa thượng bảo học chúng: "Chúng ta cần đem Tứ Nhiếp Pháp và Ngũ Minh để giáo hóa chúng sinh, nhất là trong hoàn cảnh này".
2) Cộng tác Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang:
Đầu mùa Xuân năm 1953, Hòa thượng cùng tám đệ tử mang hành lý đến Phật học đường Nam Việt (trong số đó có thầy Thanh Từ) nhằm ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch. Sau cuộc họp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, quý Hòa thượng đã đồng tình cử Hòa thượng giữ chức vụ Trưởng Ban giáo dục Giáo Hội Tăng Già Nam Việt kiêm Đốc giáo PHĐNV và chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
a) Về phần Giáo Dục:
Với trách nhiệm đốc giáo PHĐNV, Hòa thượng đã tận tâm giảng dạy cho hai lớp Cao đẳng và Trung đẳng nơi đây. Đồng thời, Hòa thượng cũng dạy lớp Trung đẳng Ni chúng mở tại chùa Từ Nghiêm, sau dời về Phật học Ni trường Dược Sư.
Kết quả, hai lớp ở PHĐNV tại chùa Ấn Quang đã lần lượt ra trường. Những Tăng sinh lớp Cao đẳng ra trường đầu tiên là: Thầy Bửu Huệ, Thiền Tâm, Tắc Phước, Tịnh Đức và Đạt Bửu. Lớp kế tiếp ra trường có những vị: Thầy Thiện Định, Huyền Vi, Thanh Từ, Từ Thông, Chánh Tiến, Quảng Long, Hoàn Quan v.v... Và những lớp sau này tiếp tục ra trường như Thầy Thắng Hoan, Đức Niệm, Liễu Minh, Long Nguyệt, Trí Quảng, Huệ Thới, Minh Thành v.v...
Tại Ni trường Dược Sư đã đào tạo nên một số Ni chúng khả dĩ gánh vác được Phật sự đáng kể như: Sư cô Như Huyền, Hải Triều Âm, Diệu Hoa, Minh Ngọc, Giác Nhẫn, Trí Hòa, Trí Định, Tịnh Thường v.v...
Đến năm 1957 Hòa thượng lại chủ xướng mở những khóa huấn luyện trụ trì lấy tên là Như Lai Sứ Giả. Tăng giới đặt tại chùa Pháp Hội, Ni giới đặt tại chùa Dược Sư. Mỗi khóa ba tháng trong mùa hạ hoặc mùa đông. Kết quả, bên Tăng đã đào tạo năm mươi hai vị như: Thầy Trường Lạc, Bửu Lai, Trí Châu, Nhật Long, Hồng Tịnh, Hồng Đạo, Hoằng Thông, Huyền Quý, Hiển Pháp, Thiện An, Huệ Thành v.v... Ni giới được ba mươi vị: Ni sư Vĩnh Bửu, Như Hoa, Phật Bửu, Giác Thiên, Như Huy, Như Chí v.v...
Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa thượng đã khuyến khích mở trường Phật học ở các tỉnh như trường Phật học tại chùa Bình An Long Xuyên (1956), trường Phước Hòa ở Vĩnh Bình, trường Giác Sanh ở Phú Thọ, trường Biên Hòa và Phật Ân ở Mỹ Tho v.v...
Có thể nói hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời đều chịu ân giáo dục của Hòa thượng, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
b) Về phần Hoằng Pháp:
Hòa thượng nhận chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt năm 1953. Đích thân Hòa thượng huấn luyện Tăng Ni sinh tại các Phật học đường để trở thành những giảng sư thật sự.
Đồng thời, Hòa thượng cũng huấn luyện các vị trụ trì Tăng Ni đều có thể thành giảng viên trên lãnh vực của mình và đi diễn giảng các nơi khác. Chẳng những đào tạo Tăng Ni, Hòa thượng còn huấn luyện số cư sĩ đã chịu khó theo học các lớp giảng tại chùa Ấn Quang, khả dĩ đi diễn giảng các nơi được.
Hòa thượng mở các lớp giảng cho cư sĩ tại chùa Ấn Quang (trụ sở GHTGNV) và chùa Phước Hòa (Bàn Cờ) sau dời về chùa Xá Lợi (trụ sở Hội PHNV) hằng tuần vào chiều chủ nhật. Chương trình Học Phật Phổ Thông do Hòa thượng chủ trương được một số chư Tăng góp sức lần lượt ra đời.
Kế đó, mở lớp giảng tại chùa Giác Tâm Chi Hội Phật Học tỉnh Gia Định, chùa Dược Sư của Hội Phụ Nữ Phật Tử. Những nơi giảng này, Hòa thượng phân công những giảng sư do Hòa thượng huấn luyện thay nhau giảng dạy. Đích thân Hòa thượng thì giảng dạy Phật tử vào tối thứ năm hằng tuần tại chùa Ấn Quang.
Phong trào học Phật miền Nam trỗi dậy như cơn vũ bão, khắp các tỉnh Giáo hội và Hội Phật học đều gởi thơ về Trung ương xin mở lớp Học Phật Phổ Thông tại trụ sở mình. Thế là Hòa thượng phải phân phối giảng sư đi giảng dạy mỗi chỗ mười hôm, căn cứ theo mười bài Phật Học Phổ Thông, một năm giảng hai kỳ. Quả thật sinh khí đã len vào mọi tâm hồn Phật tử, khiến họ hăng say học Phật. Cứ như thế mãi ngót tám năm trời (1955 - 1962).
Năm 1956, sau cuộc Đại hội kỳ hai của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Sài Gòn, Hòa thượng lại giữ chức vụ Ủy viên Hoằng Pháp Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, tổ chức phát thanh Phật Giáo hằng tuần trên đài phát thanh Sài Gòn.
c) Trước tác và phiên dịch:
Từ năm 1953 đến năm 1965, Hòa thượng soạn xong 12 khóa Phật Học Phổ Thông, hay gọi là Cây Thang Giáo Lý. Hòa thượng còn soạn Bản Đồ Tu Phật (10 tập), Duy Thức Học (6 tập), tám quyển sách quý: Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhơn Quả Luân Hồi, Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ Bi Trong Đạo Phật, Chữ Hòa Trong Đạo Phật và Năm Yếu Tố Hòa Bình.
Về phiên dịch, Hòa thượng đã dịch được:
1. Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm
2. Kinh Viên Giác
3. Kinh Kim Cang
4. Tâm Kinh
5. Luận Đại Thừa Khởi Tín
6. Luận Nhơn Minh
Hòa thượng chủ trương một Phật Học Tòng Thư phân làm 8 loại:
1. Phật Học Phổ Thông 12 khóa
2. Bản Đồ Tu Phật 10 tập
3. Duy Thức Học 6 quyển
4. Phật Học Giáo Khoa các trường Trung học Bồ Đề từ đệ Thất đến đệ Nhất
5. Giáo Lý Dạy Gia Đình Phật tử
6. Nghi Thức Tụng Niệm
7. Tạp Luận
8. Sự Tích
Các loại sách này gồm có 80 thứ.
Hòa thượng lại chịu trách nhiệm xuất bản đề tên nhà sách Hương Đạo.
Hòa thượng đã có sáng kiến quý báu, công trình trước tác, phiên dịch đáng kể. Ngài đã đóng góp cho nền văn hóa Phật giáo nói riêng, quốc gia nói chung, một phần rất quan trọng.
IV. THỜI LÃNH ĐẠO:
Thời pháp nạn dưới trào Ngô 1963, Hòa thượng đã tích cực tranh đấu cho Đạo pháp, lãnh chức vụ Phó Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo.
Cuộc tranh đấu được thành công, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời. Nhiệm kỳ thứ nhất của Viện Hóa Đạo, Hòa thượng nhận chức Đệ nhất Phó Viện Trưởng, kế đến nhận chức trụ trì Việt Nam Quốc Tự.
Sau pháp nạn 1966, Hòa thượng đảm nhận chức vụ Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Trong nhiệm kỳ này, con thuyền Phật giáo Việt Nam gặp nhiều sóng gió. Thế nhưng Hòa thượng vẫn nắm vững tay lái hướng thẳng theo con đường Bảo vệ đạo pháp và cứu nước cứu dân, lấy sự tồn tại của đạo pháp, trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại làm ngọn hải đăng.
Đến nhiệm kỳ III (1968) của Viện Hóa Đạo, Hòa thượng cũng được toàn thể đại biểu trong nước bỏ thăm lưu nhiệm. Thời gian này bịnh tình của Hòa thượng càng ngày càng tăng, mà trách nhiệm của Giáo hội lại càng nặng nề.
Với thân nhiều bệnh hoạn, lại gánh vác trọng trách quá nặng, đa số môn đồ trông thấy đều sốt ruột, đồng cầu xin Hòa thượng từ chức, về chùa Phước Hậu tịnh dưỡng.
Nhưng Hòa thượng bảo: "Tôi đặt đời tôi làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất chuyên học Phật pháp, giai đoạn thứ hai nỗ lực truyền bá, giai đoạn thứ ba tịnh dưỡng chuyên tu". Nhưng "đạo pháp đang trong thời kỳ sóng gió, mọi người đang tin cậy tôi, tôi đâu nỡ buông tay để về ngồi yên tịnh dưỡng". Môn đệ nghe những lời dạy này, đành cam nuốt lệ chớ không dám van nài.
Chính Hòa thượng đã từng dạy Tăng Ni: "Chỗ nào chúng sanh mời thì mình đến, chỗ nào đạo pháp cần thì mình đi, không kể gian lao chẳng từ khó nhọc".
Và Hòa thượng cũng thường quở trách Tăng Ni không chung lo Đạo pháp, chỉ bo bo giữ chùa riêng, bổn đạo riêng, bằng câu nói: "Một con trâu cũng tốn một thằng chăn, cả bầy trâu cũng chỉ một thằng chăn.
Tại sao khuôn mình trong chỗ hẹp mà quên việc to lớn?". Những lời dạy bảo này thực phát xuất từ đáy lòng của Bồ-tát, nói lên bởi tâm lợi tha không bờ bến, lòng mến đạo không chừng ngằn.
Có lần Sư bà Bảo An được quý Ni sư thỉnh giữ trọng trách trong Ni bộ. Sư Bà đến hỏi ý Hòa thượng, được Hòa thượng đáp: "Gánh vác Phật sự là việc tốt, nhưng khi lãnh nhiệm vụ lớn, phải tự xem mình như đứa con nít.
Dù bị người chê khen khinh trọng vẫn không nao núng. Đừng nhớ mình có chùa to, có đệ tử nhiều, gặp việc trái ý là xách gói về chùa. Tâm niệm được như thế, mới nên đảm đang đại sự". Sư bà nghe qua, rồi lặng lẽ cáo lui.
Những Phật tử trong Ban Từ Thiện Ấn Quang, lắm khi ra làm Phật sự gặp nhiều điều khó khăn, về chùa than thở với Hòa thượng thì Hòa thượng dạy: Phật sự lúc nào làm được nên cố gắng mà làm, đến khi thiếu duyên dù có muốn làm cũng không thể làm được. Nên nhẫn nhục thông qua thì mới viên mãn công đức.
Trong thời gian này, những Phật sự tại miền Nam Tăng Ni hay cư sĩ làm được điều gì đều nhờ sự khuyến khích an ủi của Hòa thượng. Phật Học Viện Huệ Nghiêm được thành hình và tồn tại đến nay, cũng nhờ ơn Hòa thượng đôn đốc và ủng hộ.
Cô Nhi Viện Diệu Quang được thành lập cũng bởi Hòa thượng thúc đẩy, vì bản ý của Hòa thượng muốn cho Ni chúng sau này vừa tu học vừa làm công tác xã hội. Hòa thượng thấy Phật Học Viện Huệ Nghiêm phát triển mạnh, hy vọng ở đây mai này sẽ có nhiều vị Tăng ra giảng dạy Phật pháp.
Cho nên Hòa thượng cố tình tạo thành Cô Nhi Viện Diệu Quang để làm cơ sở cho Ni chúng trẻ tuổi có đủ hai điều kiện học đạo và công tác xã hội. Học đạo thì gần Huệ Nghiêm thỉnh chư Tăng đến dạy, công tác xã hội thì mỗi ngày thay nhau săn sóc các em cô nhi.
Đến như Ban Từ Thiện Ấn Quang, làm được những công tác từ thiện hay Phật sự nào đều có sự khuyến khích, nhắc nhở của Hòa thượng cả. Hoặc xây cất Niệm Phật Đường trong khám Chí Hòa, cất chùa trong Dưỡng Trí Viện Biên Hòa v.v... cũng do Hòa thượng cùng Hòa thượng Thiện Hòa đôn đốc.
Tóm lại, từ năm 1964 đến năm 1972, mọi Phật sự đáng kể ở miền Nam đều được Hòa thượng trợ giúp, hoặc trực tiếp hay gián tiếp.
V.- VIÊN TỊCH:
Hòa thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm Canh Tý, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà, Ngài được đưa vào bệnh viện Đồn Đất điều trị. Bác sĩ cho biết bệnh của Hòa thượng cần phải được giải phẫu.
Hòa thượng thường nói với các đệ tử đến thăm viếng: "Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài lòng, vì đối với sự hoằng hóa tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi đã gánh vác được một giai đoạn khó khăn".
Sau khi giải phẫu, bệnh của Hòa thượng càng ngày càng nhẹ, ai cũng tin rằng không bao lâu Hòa thượng sẽ bình phục trở về chùa. Một phóng viên báo Điện tín đến vấn an, hỏi về cảm nghĩ của Hòa thượng trong thời gian ở bệnh viện. Hòa thượng đáp: Tôi không mong ước gì hơn sớm có ngưng bắn, để cho dân tộc Việt Nam được hưởng một mùa Xuân thanh bình.
Một hôm, Hòa thượng Thiện Hòa vào thăm Hòa thượng. Tuy cảm thấy bệnh tình đã nhẹ rồi, mà Hòa thượng vẫn dặn dò mọi việc, cho đến kinh sách hiện còn, đều giao cả cho Hòa thượng Thiện Hòa. Thấy điều lạ, Hòa thượng nói: "Nằm ít hôm nữa bệnh lành rồi về, nói chi chuyện ấy".
Bất thần, ngày 17 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng trở bệnh. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Hòa thượng thấy mệt, biết mình không qua khỏi nên gọi các môn đệ đến bảo: "Các con niệm Phật cho Thầy vãng sanh, Thầy mệt quá rồi".
Từ giờ phút ấy tiếng niệm Phật đều đều vang lên trong gian phòng hồi sinh. Từ đó Hòa thượng lặng lẽ dần dần đến 06 giờ 5 phút, sau một hơi thở dài rồi im lìm theo Phật!
Hòa thượng đã an lành viên tịch vào sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, thọ 55 tuổi và được 26 tuổi hạ.
Hòa thượng xong việc ra đi, nhưng để lại cho hàng Giáo phẩm trong Giáo hội bao nhiêu niềm mến tiếc. Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ tựa nương, hàng Phật tử mất đi một bậc Thầy hiền kính ái. Ngôi nhà Đạo pháp đã thiếu đi một cây thạch trụ chịu đựng!
Môn đồ pháp quyến đồng bái soạn