;
Những bản kinh còn lưu lại của Cố HT Thích Nhật Sách
Trong ký ức của một số ít người còn lại thuộc hàng phụ lão năm nay đã thượng thọ ở vùng đất Thành Sen, Đại Tiết xưa, thuộc tỉnh Hà Tĩnh, hình bóng Sư Hanh vẫn luôn hiện về như một ngọn hải đăng rực sáng giữa cơn bão tố của thời cuộc.
Giữa những năm tháng quê hương chìm trong cảnh loạn lạc, đói nghèo, chiến tranh và áp bức, Ngài không nghĩ đến bản thân, không màng danh lợi mà dấn thân hy sinh vì sự trường tồn của đạo pháp.
Ngài đã từng bước gieo mầm chánh pháp trên mảnh đất Hà Tĩnh đầy khắc nghiệt, mang ánh sáng Phật pháp đến với vùng đất nghèo khó, an ủi những kiếp người lầm than, gieo niềm tin và hy vọng giữa những tháng ngày tối tăm. Ngài là bậc thầy mô phạm, lấy thân mình làm gương, nhẫn nại vượt qua mọi gian khổ, khéo léo gìn giữ mạng mạch Phật pháp trong bối cảnh xã hội đầy biến động.
Ban thờ Cố Hòa thượng tại Vĩnh Phúc cổ tự xã Tân Lâm Hương - TP Hà Tĩnh
Cố Hòa thượng thượng Nhật hạ Sách, pháp hiệu Thích Tinh Cần, tục danh Hà Thế Hanh (thường gọi Sư Hanh) – sinh năm 1902. Nguyên quán, xã Vĩnh Ninh – Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình.
Năm 1916, Ngài 14 tuổi xuất gia vào Cố đô Huế để tu học, bổn tính thông minh nhanh nhẹn, siêng năng cần cù của chú tiểu đất Quảng Bình, nên Ngài được các bậc tôn túc Hòa Thượng yêu quý, đặc biệt là vị thầy Bổn sư đã kèm cặp tu hành sớm trở thành một vị Tỳ kheo trẻ, tinh thông giáo lý Đức Phật lại có phẩm hạnh.
Bức hoành sót lại do Hội nữ Phật tử tiến cúng cho "Hội Quán Phật Giáo" - Chùa Phật Học tại trung tâm thị xã Hà Tĩnh xưa
Năm Ất Hợi 1935, tỳ kheo Thích Tinh Cần được bổ xứ ra Hà Tĩnh để hoằng truyền giáo pháp vào xây dựng Phật pháp trên đất Hà Tĩnh lúc Ngài mới 33 tuổi.
Tại Hà Tĩnh, Đại đức Thích Tinh Cần trở thành một sứ giả Như Lai hoằng hóa lợi tha cho chúng sinh trên vùng đất này. Ngài đã xây dựng Đạo tràng, xây dựng chùa tháp, trụ trì chính là ngôi chùa Cổ Lam (Cạnh nhà văn hóa tỉnh bây giờ, nay còn sót lại cây ngô đồng).
Từ đó Ngài đã đặt chân đến hầu hết các Chùa trên đất Hà Tĩnh, như chùa Yên Lệ (xã Đại Tiết xưa), phường P.Nguyễn Du ngày nay, chùa Đại Nài trên núi Cảm Sơn, thôn Nài Xuyên, huyện Thạch Hà; chùa Vĩnh Phúc (xã Thạch Hương, huyện Thạch Hà) nay là xã Tân Lâm Hương – TP Hà Tĩnh; chùa Kẻ Da, xã Thạch Điền do người dân ở đây kể lại; chùa Phú Hào (Thị xã Hà Tĩnh) nay phường Bắc Hà – TP Hà Tĩnh; chùa Triều Sơn, (làng triều Sơn, tổng Vĩnh Luật) nay là huyện Thạch Hà; chùa Tĩnh Lâm (trên Rú Trò, làng Nghĩa Sơn tổng Thượng Nhị xưa) nay là xã Tân Lâm Hương, TP Hà Tĩnh) và nhiều ngôi chùa khác.
Bấy giờ Ngài còn liên lạc chặt chẽ với Phật giáo miền Bắc để thỉnh mời các vị tôn túc vào bồi dưỡng, tăng thêm kiến thức Phật Pháp cho Phật tử hiện hữu và nhân dân.
Chiếc mõ cúng thí của Cố Hòa thượng Thích Nhật Sách
Từ năm 1935 đến 1955 Phật giáo Hà Tĩnh vẫn còn hoạt động mạnh, xung quanh Thị xã Hà Tĩnh có các tổ Phật giáo như: Phật giáo Đại Nài, Tân Trào, Yên Lệ, lúc bấy giờ đã có rất nhiều Phật tử quy y Ngài như Cụ: Biện Văn Thiệu – Pháp danh Lệ Quảng tự Thanh Bình nay đã 90 tuổi (năm 2016) nhà ở xã Thạch Hương (cũ) thuộc Hội Phật tử Tân Trào nay xã Thạch Hương, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Phong trào Phật giáo Yên Lệ có Phật tử Lê Văn Lung – Pháp danh Lệ Thủy tự Duyên Sinh, sinh 1919 nhà ở xóm Vĩnh Hòa, xã Thạch Linh; Phật tử Nguyễn Văn Đản, pháp danh Chân Đôn (cụ mất năm 1979), Phật tử Lê Văn Loát, pháp danh (không rõ). Cụ Nguyễn Thị Lợi - Thị xã Hà Tĩnh; Bà Phan Lương Cầm, quê Thừa Thiên Huế, ông Phạm Như Mậu (gọi ông Cửu Mậu) nhà ở Thạch Hương, Thạch Hà…
Tại những thười điểm này ở chùa Phật Học mỗi tháng học 5 ngày mỗi lớp có trên dưới 40 - 50 người cả tại gia xuất gia cùng học có khoảng hơn 20 người nam nữ xuất gia. Phật giáo Hà Tĩnh lúc đó hoạt động gắn liền với Trung ương Giáo hội thời bấy giờ, những năm tháng này, Ngài đã thỉnh thầy Thích Mật Thể từ Nghệ An vào phối hợp để mở lớp dạy giáo lý cho các đệ tử tại gia và xuất gia.
Ấn Tam bảo của Cố Hòa thượng Thích Nhật Sách còn lưu lại
Mới hoàn thành tâm nguyện bước đầu, nhưng quê hương đất nước đang trong cảnh thực dân đô hộ, nhân dân Phật tử đói khát lầm than, nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã cướp đi sinh mạng hàng triệu người dân, trong đó có cha mẹ và 2 người anh chị của Ngài, để lại người cháu đích tôn duy nhất là Hà Thế Nhơn, nên năm 1945 Đại đức Thích Tinh Cần phải về quê để phần nào đền ơn báo hiếu, Ngài đã đưa đứa cháu ruột là Hà Thế Nhơn (sinh 1930) ra nương nhờ cửa Phật để gìn giữ tiếp nối tổ tiên, hiện cụ Nhơn đã mất, còn bà Vợ và 2 người con gọi Ngài bằng Chú, nay đã trên 70 tuổi vẫn thường về quê phối hợp cùng Phật tử chùa Vĩnh Phúc làm lễ hụy nhật Ngài hằng năm.
Ông Hà Thế Nhơn người cháu gọi Ngài bằng chú
Sau năm 1945, Ngài phụ trách Tỉnh Hội Phật giáo Hà Tĩnh. Cách mạng thành công năm 1954, thực dân Pháp rút quân khỏi Đông Dương, Phật giáo miền Bắc kiện toàn, Ngài được tấn phong Hòa Thượng và phụ trách Phật giáo tỉnh hội Hà Tĩnh, trụ trì chùa Cổ Lam (nay là vùng đất cạnh TT Văn Hóa tỉnh Hà Tĩnh) và lấy chùa Phật Học (Sân bóng đá ngày nay ở đường 26/3 – TP Hà Tĩnh) làm trụ sở - hội quán Phật học của Tỉnh hội.
Được một thời gian do điều kiện lịch sử quê hương lúc bấy giờ “cải cách ruộng đất, chống mê tín”, Chùa, Đình, Đền, Miếu bị đập phá (gộp tất cả thành một nơi) sư sãi bị bắt hoàn tục.. nên Thầy bị một áp lực lớn, nhiều người đi chùa bị cho là theo “mê tín dị đoan” bị quy “Quốc dân đảng..”.
Như trường hợp Phật tử tại gia Lê Văn Lung, sinh 1919 pháp danh Lệ Thủy, tự Duyên Sinh (ở xóm Vĩnh Hòa, xã Thạch Linh xưa, đã mất năm 2002, trước đây Hội trưởng hội Phật tử chùa Yên Lệ) hay Phật tử Lê Văn Loát (không rõ pháp danh) ở xóm Tuy Hòa cũng đã mất. Phật tử Biện Văn Hiếu, pháp danh Lệ Quảng tự Thanh Bình ở xã Thạch Hương – huyện Thạch Hà
Theo lời của ông Lê Văn Lung kể lại cho cháu nội Lê Văn Đức, ngày 03 tháng 7 năm Ất Mùi (tức ngày 20/8/1955) trong biến cố đó, Ngài bị cô lập hoàn toàn với mọi người và đã viên tịch tại chùa Cổ Lam, nhục thân đem an táng tại gần Hồ Thành xưa (nay là cạnh trụ sở UBND tỉnh Hà Tĩnh), cách thời gian đó không lâu, chùa Phật Học cũng bị phá dỡ hoàn toàn, một số tượng Phật, pháp khí…bị ném xuống Sông Cụt, một số như tượng Phật đản sanh, lư hương..vứt bừa bãi được người dân đem về thờ cúng đến nay vẫn còn pho tượng đản sanh có “chín rồng phun nước” bằng gỗ tại đền Võ Miếu (thuộc phường Tân Giang – TPHT) và những thập niên trước nơi thờ Sư Hanh cũng được thiết lập một góc tại ngôi Đền này.
Hiện vật của nhà sư để lại còn chiếc mõ sơn màu đỏ Ngài sử dụng cúng thí thực, mấy bộ kinh chữ hán, một chiếc ấn Tam bảo, về hiện vật chùa Phật Học còn tấm hoành phi tên chùa Phật Học làm bằng gỗ đang lưu lạc tại gia đình ông Phạm Như Sáu, xã Tân Lâm Hương.
Sau khi chia tách tỉnh Nghệ Tĩnh thành Hà Tĩnh và Nghệ An vào năm 1991 được vài năm phần mộ sư được đưa về an tang tại nghĩa trang Đồng Nài, xã Thạch Hương (nay đổi thành xã Tân Lâm Hương), huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Mộ phần Cố Hòa thượng Thích Tinh Cần tại nghĩa trang Đồng Nài, xã Tân Lâm Hương - TP Hà Tĩnh
Suốt 40 năm xã thân cầu đạo, hai mươi năm cống hiến cho Phật giáo Hà Tĩnh, hôm nay đây Phật giáo Hà Tĩnh đang trên đà khởi sắc, khắp nơi các Chùa tháp đã và đang được xây dựng và đổi mới từng ngày.
Nhìn lá cờ Phật giáo tung bay, những ngôi chùa trang nghiêm hoành tráng, nhìn màu áo lam hiền trong mỗi khóa tu tại các ngôi chùa, lại gợi lên cảm xúc trào dâng nhớ về quá khứ hơn 60 năm về trước đã có những người âm thầm xây dựng cho Phật pháp Hà Tĩnh một truyền thống tâm linh quý báu, đó là giữ vững tiếp nối ngọn cờ Chánh pháp trong lúc đất nước xã hội, quê hương đang khó khăn nhất.
Tinh thần tri ân và biết ơn mà hàng hậu học dành cho Ngài không chỉ là vì công lao xây dựng đạo tràng, giảng dạy giáo lý,, mà còn là lòng cảm phục trước đức hy sinh cao cả, trước ý chí sắt đá không lùi bước trước bão giông. Ngài đã nhen nhóm lên ngọn đuốc chánh pháp trong những năm tháng tưởng chừng mọi thứ bị dập tắt, để rồi hôm nay, sau gần một thế kỷ, ngọn đuốc ấy vẫn cháy sáng trong lòng Phật tử Hà Tĩnh, được truyền trao và tiếp nối bởi thế hệ hậu lai đầy đủ đức tài.
Hậu thế hôm nay, khi đứng trước phần mộ đã bao lần được di dời để gìn giữ, lòng không khỏi nghẹn ngào. Chính nhờ những hy sinh thầm lặng, không tên tuổi, không màng danh lợi mà Phật pháp Hà Tĩnh lại được các thế hệ hậu lai tiếp nối một dòng chảy đến tận bây giờ, để mỗi mùa Vu lan, mỗi mùa tri ân hiếu hạnh, hàng hậu học có dịp cúi đầu tưởng niệm, dâng trọn lòng thành kính, nguyện tiếp nối chí nguyện của bậc tiền nhân: giữ gìn ngọn cờ chánh pháp, phụng sự nhân sinh, làm rạng rỡ quê hương, đất nước.
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Thế, Nguyên Thiều Pháp Phái, Huý thượng Nhật hạ Sách, hiệu Tinh Cần, thế danh Hà Thế Hanh Trưởng lão Hoà thượng Giác linh.
Phật tử Tịnh Đức sưu tầm, ghi lại PL 2557 – DL 2013, chỉnh lý 2025