;
Những bản kinh còn lưu lại của Cố HT Thích Nhật Sách
Theo tư liệu và nhiều di tích, vật dụng và lời kể của các nhân chứng là hậu thế, đệ tử hoặc các vị cao niên. Phật giáo Hà Tĩnh trong giai đoạn 1930 đến 1955 là thời kỳ vô cùng khó khăn, éo le bởi nhận thức và chủ trương “Chống mê tín” của vùng đất xứ Nghệ lúc bấy giờ.
Qua tìm hiểu từ nhiều nguồn tư liệu, trong thời kỳ đó có một nhà sư đạo hiệu thượng Nhật hạ Sách, pháp hiệu Thích Tinh Cần, tục danh Hà Thế Hanh (thường gọi Sư Hanh) – sinh năm 1902. Nguyên quán, xã Vĩnh Ninh – Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình.
Năm 1916, 14 tuổi xuất gia vào Cố đô Huế để tu học, bổn tính thông minh nhanh nhẹn, siêng năng, Ngài được các bậc tôn túc lúc đó yêu quý, đặc biệt là vị thầy bổn sư đã kèm cặp tu hành sớm trở thành một vị Tỳ kheo trẻ, tinh thông giáo lý, có phẩm hạnh.
Bức hoành sót lại do Hội nữ Phật tử tiến cúng cho "Hội Quán Phật Giáo" - Chùa Phật Học tại trung tâm thị xã Hà Tĩnh xưa
Năm Ất Hợi 1935, nhà sư Thích Nhật Sách được bổ xứ ra Hà Tĩnh để hoằng truyền giáo pháp vào xây dựng Phật pháp trên đất Hà Tĩnh lúc Ngài mới 33 tuổi.
Tại Hà Tĩnh, Đại đức Thích Nhật Sách hoằng hóa lợi tha cho chúng sinh trên vùng đất này. Ngài xây dựng Đạo tràng, chùa tháp, trụ trì chính là ngôi chùa Cổ Lam (Cạnh nhà văn hóa tỉnh bây giờ, còn sót lại cây Ngô Đồng). Những năm tháng này, Ngài đã thỉnh thầy Thích Mật Thể từ Nghệ An vào phối hợp để mở lớp dạy giáo lý cho các đệ tử tại gia và xuất gia.
Từ đó Ngài đã đến hầu hết các Chùa trên đất Hà Tĩnh hướng dẫn bà con hành đạo, như chùa Yên Lệ (xã Đại Tiết xưa, phường Trần Phú, P.Nguyễn Du, P.Thạch Linh ngày nay), chùa Kẻ Da (xã Thạch Điền do người dân ở đây kể lại), chùa Vĩnh Phúc (Thạch Hương) và nhiều ngôi chùa ở Lộc Hà, Can Lộc, Kỳ Anh ngày nay.
Ngài liên lạc với Phật giáo miền Bắc thỉnh mời các vị tôn túc vào bồi dưỡng, tăng thêm kiến thức Phật Pháp cho Phật tử hiện hữu và nhân dân, theo lời cụ Biện Văn Hiếu, pháp danh Lệ Quảng tự Thanh Bình kể lại vào năm 2016, lúc đó tại chùa Phật Học mỗi tháng học 5 ngày mỗi lớp có trên dưới 30 người tại gia và 10 ngày cho người xuất gia (những người xuất gia này sau đó buộc hoàn tục lấy vợ, lấy chồng..)
Hoàn thành tâm nguyện bước đầu, nhưng quê hương đất nước đang trong cảnh thực dân đô hộ, nhân dân Phật tử đói khát lầm than, nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã cướp đi sinh mạng hàng triệu người dân, trong đó có cha mẹ và 2 người anh chị, để lại người cháu đích tôn duy nhất là Hà Thế Nhơn, nên năm 1945 Nhà sư Thích Nhật Sách phải về quê để phần nào đền ơn báo hiếu, Ngài đã đưa cháu ruột là Hà Thế Nhơn (sinh 1930) ra nương nhờ cửa Phật để gìn giữ tiếp nối tổ tiên, hiện cụ Nhơn đã mất, còn 2 người con gọi Nhà sư bằng Chú, nay đã trên 70 tuổi vẫn thường về chùa Vĩnh Phúc dự lễ giỗ hằng năm.
Sau năm 1945, Ngài phụ trách Tỉnh hội Phật giáo Hà Tĩnh. Cách mạng thành công năm 1954, thực dân Pháp rút quân khỏi Đông Dương, Phật giáo miền Bắc kiện toàn, Ngài phụ trách tỉnh hội Phật giáo Hà Tĩnh, trụ trì chùa Cổ Lam (nay là vùng đất cạnh TT Văn Hóa tỉnh Hà Tĩnh) và lấy chùa Phật Học (Bên hông sân bóng đá ngày nay ở đường 26/3 – TP Hà Tĩnh) làm trụ sở của Tỉnh hội.
Được một thời gian do điều kiện lịch sử quê hương lúc bấy giờ “cải cách ruộng đất, chống mê tín”, Chùa, Đình, Đền, Miếu bị tàn phá (gộp tất cả thành một) người xuất gia buộc hoàn tục, một áp lực lớn với Ngài…”
Như trường hợp Phật tử tại gia Lê Văn Lung, sinh 1919 pháp danh Lệ Thủy tự Duyên Sinh (ở xóm Vĩnh Hòa, xã Thạch Linh xưa, đã mất năm 2002, trước đây Hội trưởng hội Phật tử chùa Yên Lệ) hay Phật tử Lê Văn Loát, xóm Tuy Hòa đã mất và nhiều trường hợp khác cũng tình cảnh tương tự.
Chiếc mõ cúng thí của Cố Hòa thượng Thích Nhật Sách
Theo lời của ông Lê Văn Lung kể lại cho cháu nội, ngày 03 tháng 7 năm Ất Mùi (tức ngày 20/8/1955), trong biến cố đó, Ngài bị cô lập hoàn toàn với mọi người và tịch diệt tại chùa Cổ Lam, nhục thân đem an táng tại gần Hồ Thành xưa (nay là trụ sở UBND tỉnh Hà Tĩnh), cách thời gian đó không lâu, chùa Phật Học cũng bị phá dỡ hoàn toàn, một số tượng Phật, pháp khí…bị ném xuống Sông Cụt, một số như tượng Phật cửu long, lư hương.. vứt bừa bãi được người dân đem về thờ cúng đến nay vẫn còn tại đền Võ Miếu (thuộc phường Tân Giang – TPHT) và nơi thờ Sư Hanh cũng được thiết lập một góc tại ngôi đền này.
Thời gian gần đây Phật tử phát hiện bức hoành bằng gỗ, do Hội Phật tử nữ chùa Phật Học tiến cúng có nội dung “Giác Ngạn Từ Hàng” đang ở trong gia đình con cháu một đệ tử tại gia của Sư Hanh là ông Phạm Sáu, ông mang về khi chùa bị phá dỡ, hiện nay phần mộ của Hòa thượng Thích Nhật Sách tọa lạc tại nghĩa trang xã Thạch Hương (đổi tên thành xã Tân Lâm Hương), huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Suốt 40 năm xả thân cầu đạo, 20 năm cống hiến cho Phật giáo Hà Tĩnh, ngày nay Phật giáo Hà Tĩnh trên đà khởi sắc, khắp nơi trên quê hương Hà Tĩnh các Chùa tháp đã và đang được khôi phục, xây dựng, Chư tăng ni tứ chúng ngày càng đông, đời sống Phật pháp ngày càng lan tỏa và thấm sâu, phát triển trong quần chúng.
Với tinh thần tri ân, báo ân vị tôn sư khả kính, bậc thầy mô phạm xả thân vì Phật pháp cống hiến đời mình giữ ngọn cờ Chánh pháp trong lúc đất nước quê hương khó khăn, lúc pháp nạn Phật giáo đau thương nhất.
Thân nhân quyến thuộc của Ngài, những người có tâm huyết với Phật giáo Hà Tĩnh mong muốn được tìm thêm những thông tin về Ngài, về Phật giáo Hà Tĩnh trong thời kỳ đầy gian khó này.
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Thế, Nguyên Thiều Pháp Phái, Huý thượng Nhật hạ Sách, hiệu Tinh Cần, thế danh Hà Thế Hanh Trưởng lão Hoà thượng Giác linh.