;
Hình minh họa
Từ hạ đầu tiên đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức Phật chưa có một vị Tỳ-khưu nào làm thị giả thường trực để lo chăm sóc, phục vụ Ngài; khi thì vị Tỳ-khưu này, khi thì vị Tỳ-khưu khác: Các vị Tỳ-khưu như Tỳ-khưu Nāgasamāla, Tỳ-khưu Nāgita, Tỳ-khưu Upavāṇa, Tỳ-khưu Sunakkhatta, Tỳ-khưu Cunda, Tỳ-khưu Sāgata, Tỳ-khưu Meghiya,... thay đổi nhau làm phận sự phục vụ Đức Phật.
Chưa có một Tỳ-khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc Đức Phật. Cho nên, đôi khi Đức Phật ngự đi khất thực một đường, vị Tỳ-khưu ôm bát theo Đức Phật lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Đức Phật xuống đất rồi đi theo ý của mình.
Hoặc đôi khi có vị Tỳ-khưu đang phục vụ Đức Phật, thì xin đi hành đạo một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức Phật, không có vị Tỳ-khưu nào lo chăm sóc, phục vụ cho Ngài.
Trong mùa hạ này, một hôm, Đức Phật đang ngự tại cốc Gandhakuṭi, khi ấy, chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng đến tụ hội xung quanh nơi Đức Phật, Ngài truyền dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, nay Như Lai đã lớn tuổi rồi (55 tuổi), các Tỳ-khưu đến chăm sóc, phục vụ Như Lai; đôi khi Như Lai đi khất thực một đường, vị Tỳ-khưu ấy mang bát theo Như Lai lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Như Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình....
Này chư Tỳ-khưu, các con nên chọn một vị Tỳ-khưu làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Như Lai.
Khi lắng nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, Đại đức Sāriputta đảnh lễ Đức Thế Tôn, chắp hai tay bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin được làm thị giả thường trực hằng ngày, hằng đêm lo chăm sóc, phục vụ Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn không chấp thuận theo lời cầu xin của Đại đức Sāriputta.
Tiếp đến, Đại đức Māhāmoggallāna bạch xin, Đức Thế Tôn cũng không chấp thuận. Theo tuần tự, các chư Đại Thanh Văn đều xin, Đức Thế Tôn cũng không chấp thuận một vị nào cả. Duy chỉ còn Đại đức Ānanda đang ngồi im lặng. Chư Đại đức Tỳ-khưu động viên khuyến khích Đại đức Ānanda bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày hằng đêm lo chăm sóc, phục vụ Đức Thế Tôn.
Khi ấy, Đại đức Ānanda đảnh lễ Đức Thế Tôn, chắp hai tay bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin Ngài tám đặc ân, nếu Ngài ban cho con đủ tám đặc ân ấy, thì con sẽ xin làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Ngài, đó là:
Bốn đặc ân khước từ:
a) Kính xin Đức Thế Tôn không ban cho con tấm y tốt mà Ngài có.
b) Kính xin Đức Thế Tôn không ban cho con vật thực ngon lành mà Ngài có.
c) Kính xin Đức Thế Tôn không ban cho con ở chung với Ngài trong cốc Gandhakuṭi.
d) Kính xin Đức Thế Tôn không cho con đi theo Ngài đến nhà thí chủ mà họ thỉnh mời Ngài.
Đức Phật truyền hỏi rằng:
- Này Ānanda, con xét thấy bất lợi như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khước từ như vậy?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con muốn tránh những lời gièm pha của người khác cho rằng: Con xin làm thị giả thường trực của Đức Thế Tôn để mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức Thế Tôn, được đi theo Đức Thế Tôn đến nhà thí chủ thỉnh mời Ngài.
Đức Thế Tôn chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của Đại đức Ānanda.
Bốn đặc ân khẩn khoản:
a) Kính xin Đức Thế Tôn ngự đến nơi, mà con đã nhận lời thỉnh mời.
b) Kính xin Đức Thế Tôn cho phép con dẫn các người từ các phương xa khác đến hầu Ngài.
c) Kính xin Đức Thế Tôn cho phép con được vào hầu Ngài, để hỏi những pháp mà con chưa hiểu biết.
d) Đức Thế Tôn thuyết pháp nơi nào, khi con vắng mặt, kính xin Ngài thuyết lại pháp ấy cho con được nghe.
Đức Phật truyền hỏi rằng:
- Này Ānanda, con xét thấy những điều lợi ích như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khẩn khoản như vậy?
- Kính bạch Đức Thế Tôn,
Đặc ân thứ nhất: Những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo đến hầu thỉnh Đức Thế Tôn, mà không gặp được Ngài, con có thể thay mặt nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức Thế Tôn không ngự đi đến nơi đó, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Con là người thị giả thường trực của Đức Thế Tôn, vậy mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức Thế Tôn cũng không giúp được”.
Đặc ân thứ nhì: Những người từ các phương xa đến hầu Đức Thế Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn để nghe pháp, thì họ sẽ nghĩ rằng: "Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu Đức Thế Tôn, nghe Ngài thuyết pháp; nhưng vị Tỳ-khưu thị giả của Đức Thế Tôn cũng không giúp cho chúng ta được có cơ hội ấy”. Như vậy, họ sẽ giảm đức tin nơi Tam Bảo.
Đặc ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức Thế Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin hỏi lại pháp ấy, Đức Thế Tôn giảng giải cho con được hiểu rõ, thì con được thuận lợi cho việc tiến hành thiền tuệ của con.
Đặc ân thứ tư: Có người hỏi con rằng: “Bài kinh này, pháp này, tiền thân này,... Đức Thế Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?”. Nếu con trả lời với họ là: “Tôi không biết”, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Đại đức Ānanda là thị giả của Đức Thế Tôn, vậy mà bài kinh ấy, pháp ấy, tiền thân ấy... cũng không biết”. Do đó, con cần phải biết những bài kinh ấy, những pháp ấy, những tiền thân ấy,... để trả lời cho họ hiểu rõ.
Sau khi nghe Đại đức Ānanda giải thích ý nghĩa của mỗi đặc ân, Đức Phật chấp thuận đủ tám đặc ân của Đại đức Ānanda. Bắt đầu từ thời gian ấy, Đại đức Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Đức Thế Tôn, cho đến lúc Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn.
Sở dĩ, Đại đức Ānanda được địa vị thị giả thường trực của Đức Phật Gotama, là vì tiền kiếp của Ngài đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức Phật; lời phát nguyện ấy được Đức Phật Padumuttara, trong thời quá khứ đã thọ ký và Ngài cũng đã tạo ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp Trái Đất để thành tựu hạnh nguyện ấy.
(Trích từ "Nền Tảng Phật Giáo", Quyển 1: Tam Bảo - HT. Hộ Pháp)