;
SIÊU ÂM
Siêu âm là dạng sóng âm cao hơn mức bình thường, ngoài 20.000Hz, tai không nghe được; hạ âm cũng thế, chúng dao động dưới mức 20Hz, tai không nghe được.
Siêu âm vật lý và siêu âm sinh học. Siêu âm vật lý áp dụng trong nhiều ngành nghề do khoa học thực hiện. Áp dụng trong y khoa như: Đo nhịp tim, chẩn đoán động mạch vành, theo dỏi huyết áp, nội soi; siêu âm thai nhi; siêu âm dùng trong công nghệ thực phẩm, công nghệ xây dựng, Trong công nghệ quốc phòng, vũ khí và ngay cả tham cứu vũ trụ. Hiện nay khoa học còn áp dụng tần số siêu âm để diệt khuẩn và các hóa chất độc hại trong nước thải mà không cần dùng chlor, xử lý những vùng đất bị ô nhiễm. Khi tần số siêu âm cực đại, có thể tải một số năng lượng đáng kể. Theo giáo sư Timoty Mason tại đại học Coventry, Anh quốc, thì siêu âm cực mạnh sẽ tạo ra phản ứng hóa học phát sanh một nhiệt độ cực cao tạo áp suất tăng quanh vùng làm nổ tung các phân tử hóa chất độc hại trong nước, diệt vi khuẩn, vi trùng trong nước. Một tác dụng như thế thì không thể bảo siêu âm cho các sản phụ hay cơ thể con người mà không có tác hại. Cho dù tần số nhỏ, nhưng áp dụng lâu dài và nhiều lần thì hiệu ứng sinh học của siêu âm cũng không tránh khỏi sự phơi nhiễm cho thai nhi và sản phụ.
Ngược lại, sóng siêu âm phát xuất từ cơ năng sinh học đều là loại sóng âm có hiệu quả cao nhất, ngoại trừ sinh vật đó bị rối loạn hệ thần kinh. Sóng siêu âm ở con người rất hiếm, chỉ xuất hiện nơi các hành giả tâm linh, những bậc chứng đắc; Phần lớn thì một số loài động vật đặc biệt như cá heo, linh trưởng, dơi và vài loài cá, ếch. Người ta cũng thí nghiệm sóng siêu âm để điều khiển chó nghiệp vụ. Do tần số siêu âm của hệ thần kinh sinh động vật mà kỷ thuật tạo ra máy phát sóng siêu âm để đuổi muỗi, dán, chuột và những côn trùng độc hại.
Siêu âm là loại âm thanh mà một số loài động vật sử dụng như cá heo, tuy con người không nghe được, nhưng âm lực đó giúp cho những cơ phận của con người lành bệnh, vì tần số siêu âm từ cá heo tương thích và tác động đến sóng âm trong cơ năng sinh lý của con người; từ đó, Y học cũng sử dụng siêu âm vào vấn đề chữa trị và nhiều lãnh vực khác.
Trong những chấn động lực của khí quyển, địa tầng, hải lưu, các chấn lực kế đôi khi chưa nhận được tín hiệu mà một số loài động vật đã cảm nhận được những biến đổi bất thường sắp xẩy ra. Một vài nhà khoa học cho rằng động vật có giác quan thứ sáu do tuyến Tùng phát triển, nhưng thật ra, tần số siêu âm hoặc dưới hạ âm của những động vật đó đã cảm ứng được những tần sóng dao động trong không khí, dưới biển cả, trong lòng đất.
Ngày xưa, kinh nghiệm của tổ tiên, nhìn chuồn chuồn bay biết nắng hay mưa; nhìn kiến di chuyển mồi và trứng biết sắp có lụt; nhìn thú rừng hoảng loạn bất thường biết sắp có thiên tai. Hoặc kinh nghiệm nhà nông, mùa xoài trúng thì mùa lúa thất; nhìn mống dài trên trời thì biết là nắng, thấy mống ngắn biết sắp mưa…Tất cả những hiện tượng trong không gian đều báo hiệu cái gì đó sắp xẩy ra, điềm lành cũng như điềm dữ. Vì thế, cổ nhân đã sáng tạo ra quẻ dịch.
Dịch lý là lẽ biến thiên của vũ trụ, do những kinh nghiệm đó mà cổ nhân sắp xếp từng hiện tượng trên 64 quẻ, những hào quẻ đó biến hóa vô cùng dựa trên hỗ quái, biến quái mà luận đoán những sự kiện sắp diễn ra, gọi là dịch học. Sinh vật cảm ứng bằng tần sóng siêu âm. Ngoại trừ một số bậc chứng ngộ tuệ giác, tiếp nhận mọi hiện tượng bằng chấn động lực vũ trụ và sinh học mà bết trước sự việc. Những chấn động lực tạo nên sóng âm tồn tại trong không gian cho dù quá khứ xẩy ra khá lâu, các minh sư, thánh nhân, Phật, Bồ Tát căn cứ vào hiện tượng âm dịch tồn tại đó mà biết được quá khứ.
Tất cả mọi sinh vật đều có ngôn ngữ riêng, mỗi âm ngữ có một tần số cá biệt; chúng giao tiếp nhau qua sóng âm tương thích của mỗi loài; nhỏ nhiệm như loài kiến, côn trùng, sâu bọ, cho đến voi, ngựa, trâu bò rắn rết, dê chó…Chúng đều có tình thức chứ không phải vô tri như một số tôn giáo Thần học quan niệm.
Ngay cả thế giới vô hình, thấp như ma quỷ, cao hơn là Atula và chư Thiên cũng có âm ngữ để truyền đạt cho nhau. Ngày nay, khoa học chưa thẩm thấu đến thế giới siêu lý đó, nhưng qua kinh nghiệm của những nhà ngoại cảm thì thế giới âm cũng biết tỏ bày ý nguyện mà thế giới loài người chưa cảm nhận được, phải truyền đạt qua trung gian nhà ngoại cảm. Riêng cảnh giới cao thì chỉ có các minh sư, cao Tăng chứng đắc mới tiếp nhận được sóng âm của họ.
Trong kinh Pháp Hoa nói đến Bồ Tát Diệu Âm, một bậc Bồ Tát từng diễn tấu mười vạn nhạc khí khác nhau để cúng dường Đức Vân Lôi Âm Như Lai. Diệu Âm tiếng Phạn là Gadgadasvara, Gadgada là diệu, svara là âm. Diệu là huyền nhiệm, âm là dung thông; vị Bồ tát dung thông âm lực một cach tự tại huyền nhiệm; Ngài thông thấu mọi âm ngữ của chúng sanh, dùng âm ngữ diệu pháp để diễn đạt diệu pháp dưới mọi hình thái độ chúng sanh đủ mọi căn cơ trong mọi tướng trạng. Đó là loại âm ngữ dung thông tam giới. Bồ Tát Diệu Âm do hành pháp thiền giải nhất thiết ngôn ngữ của chúng sanh nên thành tựu nhiều công đức và độ thoát vô số chúng sanh nhập vào tri kiến Như Lai. Vi diệu âm ngữ của Bồ Tát từ chân tánh mà biến hiện ra mọi ngôn ngữ thích hợp với căn cơ mọi loài.
Yếu tính âm lực sẽ được nói đến trong những phần sau, để thấy rằng, âm lực nằm trong mọi dạng thức của cuộc sống, chứ không chỉ là âm thanh thông tục của mọi loài sinh động vật. Siêu âm cũng vậy, không chỉ là tần số vượt ngưởng bình thường của tai nghe mà nó còn là trạng huống của âm lực siêu thức mà ngày nay khoa học chưa chạm tới được.
Cho dù âm lực ở trạng thái hạ âm hay siêu âm cũng đều là thể hiện một nghiệp thức của chúng sanh. Hành giả quán âm có trách nhiệm chuyển hóa chúng lên tần số sóng âm siêu thức.
Siêu âm vật lý là tần số sóng âm phi thức có khả năng kích hoạt và phản xạ. Hiệu quả hạn chế trong thé giới vật chất.
Siêu âm sinh học là sóng âm có tần số với khả năng truyền đạt ý thức. Hoạt dụng đa dạng tùy tình thức của chủng loại sinh vật. Khoa học chỉ tìm hiểu được khả năng siêu âm của một vài loại động vật mà chưa am hiểu nội dung truyền đạt như một âm ngữ của chúng.
Trong những sóng âm sinh học, không chỉ phát xuất từ tâm thức của từng chủng loại, mà hoạt động của từng tế bào thần kinh cũng lưu xuất tần số nhất định lan tỏa vào năng lượng sinh thức cho những thông tin về cảm trạng, về sức khỏe, về tâm thức của mỗi loài.
Hạ âm và siêu âm, không chỉ là trạng thái của tần số sóng âm mà còn biểu hiện một trạng thái tâm thức của chúng sanh. Nhu cầu nhuốm màu vô minh dục vọng là những sóng âm hạ liệt của chúng sanh trong lục đạo ba cỏi; khi sóng âm hạ liệt được chuyển hóa vào tần số rung động thanh khiết cực mạnh của tâm thức thì siêu âm trở thành siêu thức, một âm lực có khả năng chuyển hóa và thông hiểu mọi âm ngữ của chúng sanh.
Bồ Tát Quán Âm không chỉ lắng nghe mọi nhu cầu hạ liệt khổ đau của chúng sanh mà còn là một hành giả trong mỗi chúng sanh tự chuyển hóa mọi khổ đau của chính mình bằng một năng lương thanh khiết qua sóng âm siêu thức.
Mỗi hành giả quán âm là một công hạnh của một Bồ Tát Quán Âm vận hành tự tánh nội thể để lắng nghe mọi nhu cầu hạ âm của chính mình hầu chuyển hóa thăng hoa siêu thức vào tần số siêu âm; đó là chuyển thức thành trí trong quá trình tu tập tâm linh mà dưới nhãn quan khoa học hiện đại vẫn chưa đủ khả năng minh chứng.