;
Viếng thăm Myanma xứ sở của xá lợi Phật (phần 5)
Miến Điện : Chùa Vàng thăng trầm cùng dân tộc
Thăm Hoàng cung và chùa Phật Ngọc ở Thái Lan
Phái đoàn hành hương gồm khoảng 35 vị đến từ các quốc gia như: Thụy Sĩ, Đức, Đan Mạch, Canada, Mỹ và Việt Nam, do Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác hướng dẫn từ ngày 1 đến 17 tháng 12 năm 2013. Chuyến đi gồm 2 phần là Thái Lan và Miến Điện nên số người tham dự thay đổi không ngừng, người chỉ tham dự khóa tu ở Cực Lạc Cảnh Giới Tự, kẻ chỉ muốn khai phá xứ Chùa Vàng. Ít ai chịu đi trọn gói từ đầu đến đuôi như tôi, để rồi tự nghĩ mình bị ép đến Chiang Mai lần thứ ba, một vi phạm nguyên tắc trong hành trình du lịch: mỗi địa danh chỉ nên lưu dấu một lần. Nhưng tôi vẫn tin sâu vào nhân quả, biết đâu mình trồng cái nhân gì đó ở Cực Lạc Cảnh Giới Tự của Thầy Hạnh Nguyện để bây giờ muốn bỏ chạy ngoảnh mặt làm ngơ cũng không xong.
Khóa tu bắt đầu vào ngày 4 tháng 12 với Lễ xuất gia và thọ giới đặc biệt của 6 Chú Ưu Bà Tắc trẻ, người nhỏ tuổi nhất mới chỉ 12 nhưng lại ưu việt nhất. Buổi lễ truyền trao giới pháp theo luật giới đàn Tăng của Phật Giáo Việt Nam thời cổ (hơn 200 năm trước) và thuộc hệ phái “An Nam Nikaya“ tức Việt Tông đang truyền thừa trên xứ Thái, do Hòa Thượng Tịnh Liên, Phó Tăng Trưởng Việt Tông của chùa Khánh Vân ở Bangkok truyền giới. Ngoài ra còn có sự hiện diện của rất nhiều Chư Tăng từ các nơi đến tham dự. Về buổi lễ này, Thầy Hải Châu của chùa Bồ Đề ở Hải Phòng đã viết một bài thật đầy đủ với hình ảnh đăng trên trang nhà phattuvietnam.net, tôi không cần chi tiết kể tên từng vị trong giới đàn. Nhưng không thể không nhắc đến tên Hòa Thượng Như Điển là Sư Ông của các Chú và Thượng Tọa Hạnh Nguyện là Sư phụ của họ. Có phải long thần hộ pháp đã gửi các Chú mỗi người một tài năng riêng, đến tu ở chùa Cực Lạc Cảnh Giới để giải nguy cho Thầy Hạnh Nguyện không? Làm sao Thầy có thể vừa nhập thất vừa lo xây cất phần Hạ phẩm liên hoa với bao Bảo tháp và tôn tượng? Thầy đâu còn nhiều ngón tay để đốt cúng dường chư Phật cho mỗi đại nguyện đây! Nhưng lúc nào Thầy cũng đòi tu hành rốt ráo cho dù có phải “thí cái mạng cùi“ này cũng cam.
Buổi giảng kế tiếp vào sáng ngày hôm sau do Hòa Thượng Phương Trượng đảm nhận, Người kể thêm về truyền thống Việt Tông trong 17 ngôi chùa, dù đã trên 200 năm nhưng chùa vẫn giữ nguyên những buổi công phu sáng tụng Lăng Nghiêm, chiều tụng kinh A Di Đà, cúng thí thực… bằng tiếng Hán Việt. Những buổi Chẩn tế cô hồn còn sâu sắc hơn ở Việt Nam. Kinh Bát Nhã còn tụng đầy đủ chứ không bị mất 2 chữ như kinh bản của chúng ta vẫn tụng hằng ngày. Sau lễ xuất gia xuống tóc cho 5 Chú với hai truyền thống Việt Nam và Thái Lan, Thầy Hạnh Nguyện đã gửi đệ tử đi học tại các trường ở Bangkok. Đối với Hòa Thượng đây là một niềm vui mừng đến xúc động vì 2 lý do: truyền thống không bị lạc lõng trên trời Tây, những văn bản vẫn được giữ lại. Từ năm 75 đến nay, đã có hơn 600 ngôi Chùa tại hải ngoại. Các Chú sinh ra ở miền Bắc, miền Trung và Sài Gòn để rồi quy tụ tất cả về đây, bên cội tùng già đã có những mầm non, chả trách chi Sư Ông Như Điển không cảm khái bồi hồi. Nhất là cảnh một Chú mặt mũi tươi rói hay hát bài “Ai bảo đi tu là khổ, đi tu sướng lắm chứ“ cứ lẽo đẽo theo Sư Ông như hình với bóng. Ngày nào cũng hình ảnh hai chiếc Y vàng khác màu đổ dài từ trên sườn núi đổ xuống hướng trai đường trông thật là tâm đắc.
Ngoài ra Sư Ông còn có thêm một tặng phẩm đáng giá khác là Chú
Thanh Tâm mới 12 tuổi, nay với y áo trở thành Chú Thông Tuệ. Đây có phải là
hiện tượng tái sanh không? Về phương diện sinh ngữ Chú là số một, mới được gửi
sang trường Thái có 2 tháng Chú đã trở thành thông dịch viên cho một số những
người Việt. Hòa Thượng vừa dạy tiếng Nhật cho Chú mới hai ngày, thế mà hôm khảo
thí Phật Pháp tại Chánh điện, Chú dám chọn tiếng Nhật để trả lời. Đề tài khảo
bài của Chú là Mật Tông với những khai thị từ đức Liên Hoa Sanh về
con đường đại toàn thiện. Hòa Thượng rất thận trọng trong việc đào tạo Chú này,
không dám đưa sang Mỹ hay Đức ngay từ bây giờ vì sợ xã hội có nhiều cám dỗ, đợi
đến tuổi trưởng thành sẽ có chương trình giáo dục đặc biệt sau. Chú
sinh ra tại Sài Gòn, nhưng quê quán nguồn gốc là Thái Bình.
Với
một giọng nói trầm trầm, nhẹ nhàng nhưng sôi nổi, Thầy Hạnh Nguyện đã thuyết
phục được một số Phật tử cứng đầu phát nguyện sẽ nhập thất một tháng vào tháng
12 năm 2014, dĩ nhiên không quá khổ hạnh, sẽ có người hộ thất đưa cơm, ta cứ
việc ngồi đọc Bộ Đại Tạng Kinh gồm 220 cuốn do công trình của HT Tịnh Hạnh ở
Đài Loan dịch ra tiếng Việt (dĩ nhiên do rất nhiều Cao Tăng dịch thuật). Cũng
có vài Phật tử ở Mỹ phát tâm chung nhau cúng dường bộ kinh này cho Thầy Hạnh
Nguyện, chỉ nghĩ đến được đọc Đại Tạng Kinh thôi Thầy vui sướng vô cùng và niềm
vui kéo dài đến cả tuần lễ.
Trong
4 ngày tu học, mỗi tối có lễ hội hoa đăng nho nhỏ, cầm đèn trí tuệ đi kinh
hành niệm Phật quanh hồ Sen Thất bảo. Ngày đầu còn đi nổi 3 vòng, sau
các bác lớn tuổi làm thỉnh nguyện thư yêu cầu rút xuống 1 vòng. Có một đạo hữu
vừa cầm mõ vừa niệm Phật quá chí thành đến nỗi cái đầu dùi văng ra
rơi tõm xuống hồ. Đêm cuối cùng Hòa Thượng Phương Trượng mới xuất hiện với Y
Mão thật lộng lẫy và long trọng, làm Thầy Hải Châu phải nhoài người ra ngoài
mặt hồ ôm cứng thân tượng rồng chụp những bức hình đáng giá.
Bốn ngày tu học qua mau, đã đến lúc chúng tôi phải ngồi quây quần thành một vòng tròn lớn để làm lễ bế giảng, đúc kết ưu và khuyết điểm một khóa tu, học nhiều hơn tu với 7 thời giảng. Thầy Nguyên Hiền vẫn điều khiển chương trình, tuyên dương một số vị có công hộ trì cho khóa tu học như chị Chung, một người phụ nữ trông thật yểu điệu nhưng tài điều binh khiển tướng của chị thật không ai sánh nổi. Thầy Châu Đạt của chúng ta cũng được tuyên dương cho sự sắp xếp công việc, lúc nào cũng thấy Thầy cười chắc là ok tất cả.
Sáng mồng 8 tháng 12 chúng tôi thu dọn hành lý giã từ Cực Lạc
Cảnh Giới Tự, tiếp tục cuộc hành trình vài trăm cây số đến Chiang Rai để chiêm
bái một ngôi Chùa trắng thuộc “top ten“ trên thế giới về lối kiến trúc,
nghĩa là một ngôi chùa đẹp trong số 10 ngôi chùa đẹp nhất thế giới. Đặc biệt
nhất vẫn là cái “Toilet“ chạm trổ màu vàng, xây dựng nguy nga như một tòa lâu
đài dễ đánh lừa du khách nếu không để ý tấm bảng bên dưới.
Một
tuần lễ sống chung với nhau, cùng dậy sớm chia nhau từng giọt nước để kịp giờ
lên Chánh điện Tăng dự buổi Công phu. Hôm đầu tiên vì không biết quy luật đứt
cầu chì của máy bơm khi quá tải, phòng lầu 2 của chúng tôi gồm 7 người bị lâm
vào cảnh nguyên đêm không có một giọt nước. Nhờ thế chúng tôi mới đánh giá được
đường tu, sức chịu đựng của mình đã ở mức độ nào! Trong phòng tôi có bác sĩ
Thiện Vũ thật nhu mì, trong túi lúc nào cũng có thuốc men, thuốc sát trùng và
đã mở hàng trị bệnh say xe cho tôi khi leo đến đầu con dốc của Cảnh Giới Tự.
Nhưng bệnh nhân danh dự của vợ chồng bác sĩ Thiện Niệm là Hòa Thượng, sáng nào
cũng thấy anh Thiện Niệm cầm ống nghe đi chữa bệnh, chị Thiện Vũ cầm giấy bút
theo ghi chép. Cuối cùng trong bệnh án chỉ ghi 2 chữ “nghỉ ngơi“, yêu cầu Hòa
Thượng giảm bớt lịch trình sinh hoạt thì tất cả các triệu chứng khó chịu từ
bụng đến cổ sẽ tan biến ngay. Nghe như một bài thơ nhưng thực tế hội đoàn hay
chùa chiền nào cũng mong có sự hiện diện của Hòa Thượng.
Sáng
mùng 9 tháng 12, chúng tôi rời Thái Lan đi Miến Điện đến phi trường Yangon. Tuy
nhiên đoàn vẫn phải chia làm 2 nhóm bay theo hai giờ khác nhau, nhóm của Hòa
Thượng chiếm đa số bay lúc 8 giờ sáng nên phải dậy sớm điểm tâm vội vã lúc 6
giờ. Không hiểu sao tôi lại bị lọt vào nhóm 7 người ở bên Mỹ đi chuyến một giờ
trưa. Nhờ vậy chúng tôi mới thảnhthơi ngồi nhâm nhi điểm tâm vừa ăn vừa
xem tin tức trong TiVi. Hôm nay ở Bangkok thiên hạ biểu tình xuống đường
đòi quyền sống, phe đối lập mặc áo đỏ hò hét phe áo xanh. Tình cờ các chị ở Hoa
Kỳ không hẹn mà cùng nhau trấn chiếc áo màu đỏ, làm nhân viên khách sạn phải
đến nhắc khéo các chị thay áo màu khác, kẻo bị ăn đòn oan uổng.
Đón chúng tôi tại phi trường Yangon là anh chàng hướng dẫn viên du lịch người Miến tên Bo Bo, mặt mũi vui vẻ nói tiếng Anh rất lưu loát. Anh mặc quần áo truyền thống với áo sơ-mi trắng và bên dưới quấn xà-rông thắt một búi ở trước bụng. Mọi người ai cũng quý mến anh, các bác lớn tuổi gọi anh là Bo Bo theo tiếng Việt để tưởng nhớ món ăn độc đáo thời kỳ đói khổ xa xưa. Còn các cô trẻ trẻ khác gọi cho đúng giọng Tây là Bô Bô, gọi tên nào anh cũng nhận cả. Anh giới thiệu về các phong tục tập quán của xứ Miến, tuy cái xứ trông thưa thớt dân cư chỉ thấy toàn là Tháp với Chùa mà có đến 66 triệu dân, hết 90% dân số theo đạo Phật. Tín tâm của người dân Miến đối với Phật Pháp có lẽ là số một, họ sống rất đơn giản và thanh bạch nhưng tất cả vàng bạc tiền của cùng sức lực của họ đều đổ dồn vào việc xây Tháp dựng Chùa và chùa nào cũng dát hàng tấn vàng ròng xem đến chói cả mắt.
Tại
Yangon chúng tôi còn được chiêm bái một tượng Phật nằm thật to lớn và dài hun
hút, với y áo dát bằng vàng. Hai bàn chân của Ngài được viền chỉ chân bằng vàng
ròng thấy rõ từng nét hoa chân, lòng bàn chân là những biểu hiệu đặc thù của xứ
Miến tôi không hề hiểu nổi, nên đành chịu thua.
Sáng ngày 11 tháng 12 chúng tôi đáp máy bay đi Bagan, những chiếc máy bay đời cổ lỗ sĩ chạy bằng động cơ chong chóng chỉ còn thấy tại Miến Điện cũng không làm chúng tôi lo sợ. Từ trên cao nhìn xuống thành phố cổ Bagan, chỉ thấy toàn những Tháp là Tháp, từng cụm Tháp liền với nhau trông rất lạ mắt. Nhà cửa của dân chúng thấp lè tè chỉ thấy mái tôn với vách đất và những hàng dừa “Thốt nốt“ cao vót lá xòe trông thật đẹp. Đoàn được đưa về khách sạn Raza Gyo với lối kiến trúc thật dễ thương, tường trắng cẩn gạch nung bên cạnh giàn hoa giấy màu tím. Sau khi ổn định nơi ăn chốn ở, đoàn tiếp tục đi viếng thăm Đại tháp vàng Shwezigon ở Bagan to lớn không kém gì Chùa Vàng ở Yangon. Đến đây trong phái đoàn hành hương của Hòa Thượng đã xuất hiện ba cô gái Miến quấn xà-rông bằng lụa nhiều màu. Chẳng là ban sáng trước khi đến Chùa, đoàn yêu cầu anh Bo Bo cho ghé chợ Miến để có dịp tiêu tiền, vì đồng tiền Kyats đổi ra Đô La rẻ quá tiêu hoài không hết và họ chỉ đổi tiền mới không chịu nhận nếp gấp hay vết nhăn. Ai muốn tìm sầu riêng hay mãng cầu gì tùy ý, chứ chị Thuyền Vị của tôi cứ khăng khăng đi tìm xà-rông làm Miến… giả, chị chọn màu xanh da trời đậm rồi bắt Nhật Hưng và Hoa Lan mỗi người một màu cho cân xứng. Cái gì giả rồi cũng biến, làm sao lết cái xà-rông dài leo lên bảo tháp đây, chưa kể vào chùa Miến phải bỏ giày dép tận ngoài xe buýt cho an toàn, không phải sợ ai lấy trộm mà sợ đông quá không tìm ra dép.
Sau đó phái đoàn viếng thăm chùa hang động Wetkyi-in Gubyakgyi
với bích họa trên vách và chùa Htiominlo với những phù điêu chạm trổ tuyệt đẹp
nếu nhìn kỹ, vì dấu vết đã bị thời gian làm cho phai nhòa mà chưa được bàn tay
nghệ nhân trùng tu lại. Ngày hôm nay đoàn được vào 2 quán ăn tên nghe rất kêu,
buổi trưa vào quán “Niết Bàn“ và chiều là quán “Vườn Địa đàng“. Nghe tên đã
thấy sợ mà quán không có lấy một miếng đậu hũ lót lòng. Sau bữa trưa đoàn viếng
thăm công trình Ananda, một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật độc đáo
chùa cổ xưa và một số ngôi chùa nổi tiếng khác Manuha Paya. Cuối ngày lúc trời
sắp tắt nắng, phái đoàn thầy trò cùng leo lên tận đỉnh Tháp Bupaya hay còn gọi
là Shwesandaw để chụp cảnh Chùa Tháp hùng vĩ. Các bác lớn tuổi biết lượng sức
mình chỉ đứng quanh quẩn bên dưới trông lên, đường lên thẳng đứng chỉ nhìn thôi
cũng đủ run chân.
Anh
chàng Bo Bo có kể, ở Bagan có một loại cây rất đặc biệt, người ta ép chất nhựa
của cây ra làm kem bôi mặt rất tốt, vừa chống nắng vừa dưỡng da. Các phụ nữ
Miến da ngăm ngăm, bôi chất kem vừa trắng lẫn vàng lên mặt thành hai màu tương
phản trông chẳng thẩm mỹ tí nào. Nhưng có hai người đẹp trong phái đoàn đã dùng
thử loại kem này, khen ngợi không tiếc lời nào bôi lên thấy mát rượi, trời nắng
mặt không đổ mồ hôi. Làm cả bọn buổi tối bắt Thầy Châu Đạt dẫn ra chợ vơ vét
hết các cửa hàng. Ba hộp chỉ đáng giá hai Đô La Mỹ rẻ quá mà!
Qua
ngày hôm sau 12 tháng 12, sau buổi điểm tâm chúng tôi khởi hành đi núi Popa,
chiêm ngưỡng các vẻ đẹp của những cảnh đồi và rừng núi. Nơi đây cũng từng là
đỉnh núi lửa với huyền thoại thần Nat, vị thần linh thiêng nhất của Miến
Điện. Nhưng tôi chẳng thấy thần linh đâu chỉ thấy một bầy khỉ liếng thoắng rình
người sơ sẩy là giật máy hình và túi xách. Nhật Hưng bị khỉ giật mất chiếc áo
khoác vất trên mái nhà, may nhờ một anh chàng hiệp sĩ trèo lên mái tôn đem
xuống. Cứ tưởng đường lên núi cao ai cũng trang bị đôi giày leo núi, nhưng mới dưới
bậc thang cấp đã bị bắt đi chân không leo cả trăm bậc thang đến tận đỉnh tháp.
Chị Thuyền Vị bảo lần sau đến Miến Điện, từ phi trường chị đã đi chân không cho
khỏi bị bắt cởi giày.
Tiếp
đến chúng tôi viếng thăm ngôi chùa Lọng với truyền thuyết nối ngôi có liên quan
đến cái Lọng và sau đó đi thăm viếng các làng dân tộc xem họ làm các hàng thủ
công nghệ. Khi trở về Bagan chúng tôi viếng thăm Đại tháp Lawkananda, lại
ngưỡng mộ thêm một công trình dát vàng to lớn. Buổi tối tại nhà hàng cây cảnh
sân vườn chúng tôi được xem ca nhạc múa rối truyền thống của dân tộc Miến Điện.
Nhạc điệu của họ tương đối trầm trầm hơi buồn, không vui tươi và ồn ào như một
số quốc gia khác. Càng về đêm các vở múa rối càng khởi sắc, sắp đến đoạn múa
voi trắng hấp dẫn thì Hòa Thượng ra lệnh bắt đi về, tuy lúc ấy chưa đến 8 giờ
tối. Nhật Hưng và tôi mặc dù trong bụng vẫn còn ấm ức nhưng không dám cãi lệnh
của Hòa Thượng đành phải “Y giáo phụng hành“.
Sáng
ngày 13 tháng 12, chúng tôi từ giã tỉnh Bagan đáp xe buýt đi Mandalay. Đường đi
chỉ có 250 km thôi, nếu chạy ở xa lộ của Đức chỉ hơn 2 tiếng đồng hồ là đến
nơi, nhưng đây là đường làng xứ Miến Điện, ta cứ việc phó mặc bác tài cho xe
chạy bon bon kéo đến năm sáu tiếng cũng chẳng sao. Hòa Thượng đã dự tính chương
trình cho ngâm thơ ca hát và phát biểu cảm tưởng của 35 vị trên xe, chắc 5
tiếng cũng không đủ. Anh kiến trúc sư Thiện Đạt ở Mỹ có vẽ 6 bức tranh Quán
Âm trên giấy gạo với nét vẽ Thiền Quán thật đơn sơ và thật đẹp. Dĩ nhiên Hòa
Thượng phải nghĩ ra 6 câu đố về lịch sử, văn chương, toán học và Phật học để
treo giải cho các vị trong đoàn. Cuộc thi đố rất hào hứng, chẳng hạn ai là vị
Tổ đầu tiên đã mang Phật giáo vào Việt Nam, căn của 1 bằng mấy, cuộc
cách mạng của Pháp xảy ra vào ngày nào, vua Gia Long lên ngôi năm nào? Ấy thế
mà cũng có người trúng được 2 bức tranh luôn. Chị Thiện Diệu vợ nhà thơ Đan Hà
được bức tranh với câu trả lời, vua Phổ Nghi là vị vua cuối cùng của nhà Mãn
Thanh.
Dĩ
nhiên bài viết có giới hạn, tôi không thể nhớ hết tên từng vị trong đoàn và
những nỗi lòng thiết tha của họ đối với Phật pháp khi phát biểu cảm tưởng.
Nhưng một thoáng nhận xét vềchữ hiếu của hai người con gái ở Canada và Hoa
Kỳ, đã bỏ hết gia đình, công việc để tháp tùng mẹ đi tu học và hành hương. Đấy
là niềm hạnh phúc của chị Tâm Tịnh, một Phật tử thuần thành của Chùa Phật Đà
bên San Diego, được cô con gái dễ thương Tâm Thuận đi theo kè kè, mặc dù chị
Tâm Tịnh nhìn vào trông vẫn còn trẻ cứ như hai chị em. Bên Canada vẫn là bác
Bảy của những chuyến hành hương năm nào, nếu không có Khánh Lan bên cạnh liệu
bác Bảy có còn dám đi hành hương nữa không? Từ đầu đến đuôi tôi chỉ viết chung
chung là các bác lớn tuổi, nhưng các bạn có biết bác lớn tuổi nhất trong đoàn
là bao nhiêu không? Chỉ mới 91 tuổi thôi, nhưng minh mẫn và nhanh nhẹn vô cùng,
bằng chứng là với chiếc gậy trong tay cụ từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người
và luôn nói câu: “Cứ để mặc tôi“. Sau cụ 91 là một cụ 89, hai cụ bà sống ở bên
Mỹ không biết đã luyện được bí quyết gì mà khỏe thế!
Đoàn còn thăm những danh lam thắng cảnh nổi tiếng khác như Tháp
Mahamuni, tu viện Shwe Nan Daw Kyaung bằng gỗ Teak truyền thống với hơn trăm
năm sương gió. Đặc biệt là những ngôi chùa danh tiếng của Miến Điện, khu trang
nghiêm gần nơi thờ Phật, đa số đều có tấm bảng: “No Lady“ cấm phụ nữ bước vào
thật là tủi thân. Gần xế chiều đoàn mướn xe lam nhỏ, chở khoảng 7 người một
chuyến, leo đồi thế kỷ lên thăm tu viện danh tiếng Mahagandhayon với hơn 1200
Tăng sĩ. Tiếp chúng tôi là một vị Tăng người Miến và 4 vị Thầy Việt Nam tu học
ở đây, sau phần hỏi han thăm viếng Thầy trò chúng tôi trao số tịnh tài cúng
dường cho 1200 vị, tiền cúng dường cho một ngày mỗi vị là 3 Đô La Mỹ. Phần còn
lại chúng tôi cúng dường riêng cho các Thầy VN nhiều hơn. Buổi thăm viếng trái
giờ này chưa làm cho một số người trong đoàn chúng tôi hài lòng, phải được tận
tay bỏ vào bình bát của 1200 Tăng sĩ mới có “feeling“ ấn tượng sâu. Thế thì
sáng sớm mai bỏ mục đi dạo du thuyền dọc theo sông Ayarwaddy, trở lên lại đây
dự buổi lễ khất thực của 1200 vị khất sĩ với y áo bình bát như thời đức Phật
còn tại thế.
Thật
là một quyết định sáng suốt các bạn ạ! Chúng tôi với áo tràng chỉnh tề chia
nhau đứng dàn chào bên những lễ vật cúng dường. Tôi được xếp vào những thùng
táo Fuji thơm phức nhưng mang nhãn hiệu made in China, lòng còn bồi hồi thương
cảm cho các Thầy phải thọ hưởng những sản phẩm mang nhiều “Thần dược hổ lốn“
của Trung Quốc. Nhưng sau nghĩ lại: Khi cúng dường ta phải đạt được 3 điều
thanh tịnh, vật cúng dường thanh tịnh, người cho thanh tịnh và người nhận thanh
tịnh. Lúc đầu bỏ trái táo vào bình bát chúng tôi còn chắp tay xá và cúi đầu
chào thật cung kính, nhưng sau phái đoàn Khất sĩ rầm rộ tiến đến thứ tự từng
hàng loạt cả một ngàn hai trăm người, khiến chúng tôi bá thở không còn biết
trời trăng gì nữa, chỉ còn biết lòng niệm Phật, tay bỏ cho nhanh kẻo thiếu sót.
Thật là một ấn tượng sâu sắc khó quên!
Đến
đây chương trình đi viếng thăm Chùa đã tạm ngưng, chúng tôi làm chuyện đột xuất
hùn nhau lại bỏ phong bì đi thăm 70 người già không thân nhân tại một viện
dưỡng lão. Có nhiều vị trong đoàn muốn chuyến hành hương này vừa được công đức
vừa được phước, nên đã hoan hỷ bỏ ra từng cọc tiền Miến đặt trên mâm.
Chúng
tôi trở về Mandalay nghỉ ngơi và thu xếp hành trang để sáng mai giã từ xứ Miến.
Tuy thời gian lưu lại xứ sở này chỉ có một tuần, nhưng chúng tôi cũng đã đặt
chân lên những nơi cần phải đến. Người dân Miến hiền lành sống đạo hạnh trong
tinh thần Phật giáo, họ không bon chen cạnh tranh nhau để dành giật miếng ăn.
Thí dụ điển hình trong ngôi chợ làng với nhiều quầy bán mãng cầu, phái đoàn
chúng tôi thấy loại trái cây này là xà vào trả giá. Chúng tôi tất cả chỉ mua ở
quầy đầu tiên khiến cô bán hàng được trúng mối, cô bạn hàng bên cạnh chỉ nhìn
chúng tôi một cách thờ ơ không kêu nài mời mua tranh mối với bạn hàng. Điều này
không có ở Việt Nam rồi. Chỉ sợ Miến Điện mở cửa, du khách tràn ngập vào với
ngoại tệ chênh lệch sẽ làm biến đổi con người mà thôi.
Trở về lại Bangkok, thủ đô của biểu tình và nổi loạn của ai đâu chứ không phải của phái đoàn hành hương chúng tôi. Đón phái đoàn tại phi trường là Thầy Nhuận Ân, đã tu học tại xứ Thái gần 8 năm. Thầy hướng dẫn đoàn đi thăm trường Đại học Phật học với phân khoa khoa học xã hội, có rất nhiều du Tăng Ni Việt Nam đang học tại đây. Thế là có buổi nói chuyện của Hòa Thượng Phương Trượng với các du Tăng Ni, nhiều câu hỏi được đặt ra. Làm sao đem được những ưu điểm của đường lối giáo dục ở xứ Thái về áp dụng tại Việt Nam, như giáo dục cho các em học sinh nhỏ giữ được truyền thống, mỗi ngôi chùa đều có một ngôi trường nhỏ dạy cho các em. Các Ni Cô trẻ đầy nhiệt huyết sau khi học xong sẽ mang nhiều ước nguyện về quê nhà thực thi, không phải là dễ trong xã hội đầy thoái hóa về đạo đức con người như hiện nay.
Chúng tôi được ở lại Bangkok đến 3 ngày nhưng chỉ 2 đêm tại
khách sạn Atrium Boutique, nằm gần trung tâm thương mại nên mỗi tối Thầy Châu
Đạt hay dẫn một số người thích đi khai phá tìm tòi trái cấm như sầu riêng, hay
lội bộ cho tiêu cơm, tiêu mỡ lẫn tiêu đường. Chẳng phải tài sản lớn nhất của
con người là trí tuệ và sức khỏe hay sao? Tôi đi tìm những chỗ “mát-xa“ chân, ở
Bangkok món này đầy dẫy ngoài đường và giá rất rẻ, nên xé lẻ đi riêng. Ít ra
xương cốt cũng được thư giãn cho bõ những ngày đi hành xác, ý quên hành hương.
Buổi
sáng ngày 16 tháng 12, chúng tôi đến thăm trung tâm Dhammakaya, một trung tâm
Thiền rộng lớn có tầm vóc quốc tế. Biểu hiệu là một cái Chuông Vàng úp xuống,
dùng để nhốt Tôn Ngộ Không một trong số các hình ảnh trong Tây Du Ký, nhưng
thật ra đó là biểu tượng của Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
Buổi chiều hôm đó, Thầy Nhuận Ân hướng dẫn thầy trò chúng tôi vào khu Chinatown của Bangkok để viếng thăm Chùa Khánh Vân, ngôi chùa lịch sử nơi Thầy đang làm Phật sự tại đây. Mặc dù không có chữ Việt viết tên chùa nhưng nhìn cách kiến trúc và trang trí tôn tượng, ta nhận ra ngay đấy là một ngôi chùa Việt Nam chính thống với 6 cây cột chạm hình rồng, tượng Đức Bổn Sư ngồi trang nghiêm với hai Tôn giả A Nan và Mục Kiền Liên chắp tay đứng hầu hai bên thật là quen thuộc dưới mắt nhìn của Phật tử Việt Nam. Trên lầu bên hậu liêu nơi thờ tượng và nhục thân của Hòa Thượng Phổ Sái, Tăng trưởng của hệ phái Annam Nikai và Trụ trì đời thứ 4 của chùa Khánh Vân. Đến đây tôi có thể cho ngược dòng thời gian lại 10 năm, kể ra câu chuyện bí ẩn về môn phái Việt Tông trên đất Thái
Qua ngày 17 tháng 12 chúng tôi còn đủ một ngày để đi thăm các chùa Thái nổi tiếng khác ở Bangkok như “Wat Pho“ với tượng Phật nằm bằng vàng thật to và thật dài. Ngoài vườn có hai ông Hộ pháp người Tây phương đội mũ cầm “ba-ton“ trông thật lạ mắt. Sau đó đi thăm ngôi chùa Bình Minh cổ kính được vua Rama I xây dựng sau chuyến viễn chinh thắng trận trở về vào một buổi sáng mai còn đượm ánh bình minh. Đến đây chương trình hành hương đã chấm dứt, chúng tôi được phát thẻ ăn trị giá 150 Bahts tại một siêu thị khá lớn và cộng thêm 4 tiếng đồng hồ tự do mua sắm, tha hồ tiêu tiền một cách thoải mái với điều kiện vẫn còn tiền.
Chuyến bay về lại cố quốc khởi hành lúc 2 giờ đêm nên vẫn còn
thì giờ thu xếp hành trang và nói lời chia tay với các bạn ở xa. Không biết
thiên hạ ra sao chứ riêng tôi lắm mối tơ vò, vì một mình bị kẹt lại xứ dầu lửa
khá nhiều bất trắc. Nhưng tôi đã sửa soạn hết cả rồi, tất cả tài liệu tin
tức gì về nơi xa lạ mình sẽ đến đã được ông thần hộ mệnh Google chỉ dẫn
trước. Khoảng cách từ phi trường đến khách sạn Thầy Hạnh Nguyện đặt trước cho
tôi chỉ có 10 km, cứ việc dùng Anh ngữ kiểu “Cọp nhai bắp rang“ rổn rảng để trả
giá với chú tài xế Ả Rập. Tôi xin được đi ngoài lề một chút nói về thành ngữ
mới mẻ này, chẳng là lúc ở phi trường Bangkok phái đoàn Đức quốc chúng tôi phải
tháp tùng 2 chiếc xe lăn cho hai thành viên lớn tuổi trong đoàn. Lúc nhân viên
của phi trường đẩy xe có dặn dò một số điều gì đó, nhưng mọi người cứ ngẩn tò
te làm sai ráo trọi, khiến Hòa Thượng phải châu mày chê nhóm Phật tử Đức quốc
nói tiếng Anh như “Cọp nhai đậu phọng“. Tôi lúc ấy đang nằm ngủ gà ngủ gật ở
hàng ghế phía sau, nên khi nghe anh Phật tử ở Saarbrücken rỉ tai kể lại rất lấy
làm đắc ý bèn tự phong cho mình chứng chỉ “Cọp nhai bắp rang“ giỏi hơn nhai đậu
phụng một chút xíu.
Trở lại vấn nạn ở thủ đô xứ Ả Rập, lúc 6 giờ sáng ngày 18 tháng 12 phái đoàn Đức quốc của chúng tôi do Hòa Thượng hướng dẫn phải đổi máy bay ở phi trường Abu Dhabi, lúc này phái đoàn đã mệt mỏi rã đám như một đoàn tàn binh. Tôi nhớ mãi ánh mắt thương cảm của đoàn nhìn tôi, vẫy tay chào rồi vội vàng kéo hành lý xách tay đi tiếp, để mặc “tôi giữa trời bơ vơ“ một mình. Phải cần đến hai tiếng đồng hồ sau tôi mới hoàn hồn tính đường đi chơi tiếp, ngồi trong phi trường tối tân được phủ sóng đầy đủ tôi tha hồ vào trang nhà Quảng Đức và Hoa Vô Ưu đọc cho bõ hai tuần bị mất sóng với bên ngoài. Khoảng gần 9 giờ tôi đã ra khỏi phi trường, liên lạc với các quầy du lịch hỏi han giá cả và cách đi “Tour“ rẻ nhất. Họ chỉ tôi leo lên xe buýt lớn là rẻ nhất, nếu không phải thuê bao taxi. Tôi chạy theo xe buýt đòi mở cửa nhưng tài xế đã lắc đầu bảo xe chỉ chạy đến thành phố Dubai. Thế là tôi đành kéo hành lý ra chỗ taxi để thương lượng, chắc tôi niệm Quán Âm một cách chân thành nên Ngài đã gửi đến cho tôi một anh chàng Ả Rập mặt mũi hiền lành có tên là Hossain. Tôi thuê bao anh chàng taxi khoảng 3 tiếng, chở đến các nơi danh lam thắng cảnh chỉ dẫn giải thích tận tường và chở về khách sạn ở đảo Yas Island cạnh chỗ đua xe hơi Formel-1 nổi tiếng. Việc trả giá không đơn giản, anh đòi giá trên trời tôi cho anh xuống đất và cuối cùng tôi rút tờ giấy 50 đô cộng thêm tờ 100 Dirhams của Ả Rập mới đổi ra giá cuối cùng, anh mỉm cười mở cửa xe mời tôi.
Thắng cảnh đầu tiên là Sheikh Zayed Moschee, một nhà thờ Hồi
giáo lớn hàng thứ 3 trên thế giới có thể chứa tới 40 ngàn người hành hương.
Những trang trí bên trong đều là những kỳ quan của thế giới, chẳng hạn đá cẩm
thạch của xứ Ý được lót từ trong ra ngoài, những tấm thảm dệt bằng tay của Iran
phủ kín cả một vùng và những cây đèn trùm thật rực rỡ treo trên trần toàn bằng
đá thủy tinh Swarowski. Tôi phải miêu tả sơ sơ cái Moschee này một tí vì vào
được đây cũng trần thân, thứ nhất họ không cho tôi vào khi phụ nữ không mặc
“Black dress“ trùm kín toàn thân. Tôi từ chối thay áo họ cho mượn vì nghĩ mình
đã Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng rồi, nhất định đời đời kiếp kiếp không
quy y tà ma ngoại đạo. May quá anh tài xế Hossain thương lượng với anh gác cổng
sao ấy, đưa tôi về lại xe đổi chiếc áo khoác bên ngoài dài tay hơn một tí và
lấy khăn voan trùm kín hết trên đầu. Sau đó anh chàng Ả Rập chở đi vòng vòng
trung tâm thành phố, chỉ trỏ mấy tòa nhà cao ốc với niềm hãnh diện rồi hỏi tôi,
rằng bên Nhật có những tòa nhà này không. Tôi đành nhận mình là người Nhật cho
an toàn, vì nghe đâu mấy xứ Ả Rập đem lao động hợp tác từ Việt Nam sang có vấn
đề. Họ nhìn hình ảnh người Việt qua lăng kính của các anh chàng đi từ xã hội
chủ nghĩa chỉ toàn kế nhỏ để lừa họ, chẳng hạn giả bệnh trốn việc rồi đi làm
chui kiếm thêm tiền. Tôi thành thật khai báo mình là người Việt chỉ có nước đi
luôn không ngày trở lại.
Trước khi chấm dứt bài viết, tôi xin được trích dẫn những lời
Hòa Thượng Sư phụ tôi muốn nhắn nhủ với mọi người. Tuy văn của tôi không được
“như thị ngã văn“ nhưng tôi cũng cố gắng truyền đạt được ý tưởng của Người.
“Nếu một mai tôi có qua đời“, xin quý vị chỉ nhớ đến 2 điểm nơi tôi: một là từ
50 năm nay không bao giờ tôi bỏ một thời tụng Kinh Lăng Nghiêm, hai là từ 30
năm nay tôi đêm nào trong mùa An Cư Kiết Hạ cũng lạy đủ 300 lạy.