;
Dưới đây là vắn tắt cuộc đời của 10 đại cao đồ này của Đức Phật.
Trong các cao đồ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì 10 vị La Hán kiệt xuất nhất là 10 đại đệ tử. Họ là: thứ nhất là Ma Ha Ca Diếp - đệ nhất khổ hạnh; thứ hai là A Nan Đà - đệ nhất đa văn; thứ ba là Xá Lợi Phất - đệ nhất trí tuệ; thứ tư là Tu Bồ Đề - đệ nhất giải không; thứ năm là Phú Lâu Na - đệ nhất thuyết Pháp; thứ sáu là Mục Kiền Liên, đệ nhất thần thông; thứ bảy là Ma Ha Ca Chiên Diên - đệ nhất luận nghĩa; thứ tám là A Na Luật - đệ nhất Thiên nhãn; thứ chín là Ưu Bà Ly - đệ nhất trì giới; thứ mười là La Hầu La - đệ nhất mật hạnh. (Hình ảnh, tôn tượng Thập đại đệ tử Đức Phật tại Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt, Sơn Trà, Đà Nẵng).
1. Ma Ha Ca Diếp: Khổ hạnh đệ nhất (Đầu đà đệ nhất)
Ngài chuyên tu đầu đà hạnh, Ngài là bộ óc chính của lần tập kết kinh điển lần thứ nhất. Do hoàn thành nhiệm vụ tập kết kinh điển lần này, nên danh tiếng của Ma Ha Ca Diếp (cũng gọi là Đại Ca Diếp) vang danh thiên hạ. Tên đầy đủ của là Ma Ha Ca Diếp Bà, sinh ở làng Ma Ha Bà La, gần thành Vương Xá, miền trung Ấn Độ. Phụ thân của là đại phú ông nổi tiếng của Bà La Môn giáo, cha mẹ ông kết hôn nhiều năm mà vẫn chưa có con, thế là họ đến trước cây bồ đề (pipala) cầu sinh con. Thế là sinh ra Ma Ha Ca Diếp, đặt nhũ danh là Pipalayana.
Đứa trẻ này sinh ra có 32 tướng tốt, mỗi hành vì cử chỉ đều khác người bình thường. Năm 8 tuổi, cậu bé thọ giới Bà La Môn. Sau đó nhanh chóng tinh thông những huyền diệu trong pháp môn.
Một ngày, nghe đến danh tiếng của Phật Thích Ca, Ngài liền tìm đến gia nhập tăng đoàn. Ngài là người biết đủ, ít ham muốn, chuyên tâm tu hành, dó đó được xưng là Đầu đà đệ nhất. Khi Đức Thế Tôn nhập diệt, đúng lúc ngài đi vân du ở phương bắc xa xôi. Sau khi được báo tin buồn này, ngài lập tức đi suốt ngày đêm.
2. A Nan Đà: Đa văn đệ nhất
Tôn giả A Nan Đà, cũng gọi là A Nan, hoặc Nan Đà, sinh ở thành Ca Tỳ La Vệ, là em trai của Bà Đạt Đa. Ngài là con trai của Cam Lộ Phạn Vương, và là em họ của Đức Phật Thích Ca.
Thuở nhỏ, ngài theo học Thập Lực Ca Diếp, dựa theo lời trung của Bạt Kỳ Tử mà đắc Đạo. Khi Đức Phật Thích Ca 55 tuổi thì ngài bắt đầu bước vào Phật môn, phụng sự Đức Phật trong thời gian dài 25 năm. Khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả A Nan và A Miện Lâu Đà túc trực ở bên, chuyên tâm chăm sóc.
Tôn giả A Nan vốn học rộng, có trí nhớ tốt, nghe 1 biết 10, do đó được gọi là Đa văn đệ nhất. Trong đại sự tập kết kinh điển, đại bộ phận kinh văn đều dựa vào trí nhớ của ngài mà được truyền miệng. Ngài thiên tính từ bi ôn hòa, dung mạo tuấn tú, được phụ nữ rất ái mộ, cũng vì thế mà ngài liên tiếp gặp tai họa nạn nữ nhân.
20 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả A Nan thấy Đại Ca Diếp đã thị tịch ở núi Kê Túc, bắt đầu cảm nhận thời gian ra đi của mình cũng đã đến gần. Ngài bèn triệu tập 500 tỳ kheo đến bên bờ sông Hằng, đưa ra lời dạy bảo cuối cùng, rồi ngài ung dung viên tịch ở tuổi 120. Di cốt của ngài được mai táng ở bên Tịnh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá.
3. Xá Lợi Phất: Trí tuệ đệ nhất
Tôn giả Xá Lợi Phất vốn tên là Ưu Bà Để Sa, tên đầy đủ là Xá Lợi Phất Đa La. Về nguồn gốc cái tên Xá Lợi Phất, trong “Đại trí độ luận” có viết: “Vua Ma Đà La có một con gái, mắt cô rất giống mắt chim xá lợi (một loài thủy cẩm), do đó cô được đặt tên là Xá Lợi. Cô được gả cho Đế Sa, sinh ra một con trai, đặt tên là Xá Lợi Phất Đa La (thường gọi tắt là Xá Lợi Phất). Do chữ “phất đa la” nghĩa là con trai, nên tên của ngài nghĩa là “Con trai của Xá Lợi”.
Thuở nhỏ, ngài được sự giáo dục của phụ thân bác học đa tài và mẫu thân hiền minh, do đó ngài tinh thông bách khoa kỹ nghệ. Ngài cùng người bạn là Câu Luật Đà (tức Mục Kiền Liên) có rất nhiều đệ tử, và có thanh thế khá lớn. Một ngày, ngài gặp tỳ kheo Mã Thắng, được biết đến danh của Đức Phật Thích Ca, lập tức vô cùng ngưỡng mộ, liền dẫn trên 350 đệ tử đến Tịnh xá Trúc Lâm quy y Đức Phật, thọ giới cụ túc.
Cả 6 anh chị em đều xuất gia, trở thành đệ tử của Đức Phật. Lúc này, vì Xá Lợi Phất quy y, khiến uy đức của Đức Phật càng nổi danh, khiến thế lực của giáo đoàn càng mở rộng. Đức Phật khen ngợi, gọi ngài là Pháp Tướng. Vì thế, Xá Lợi Phất đứng đầu trong các đệ tử, được gọi là Trí tuệ đệ nhất.
Xá Lợi Phất nhập diệt trước Đức Phật. Khi ngài cảm thấy thời gian nhập Niết bàn của mình đã đến gần, bèn quay về cố hương, an tọa trong phòng, thanh tâm tĩnh trí. Tương truyền sau này ngài được danh hiệu Hóa Quang Phật, và lại đến nhân gian để làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
4. Tu Bồ Đề: Giải không đệ nhất
Tu Bồ Đề dịch nghĩa là Thiện Cát, Không Sinh, Thiện Nghiệp, sinh ra ở thành Xá Vệ, là em trai của Trưởng lão Cấp Cô Độc, là con trai của Trưởng giả Tu Ma Na. Về nguồn gốc cái tên của ngài, trong “Tịnh danh sớ” có ghi chép rằng: “Khi chào đời, trong nhà Tu Bồ Đề tất cả đều là không, do đó gọi là Không Sinh. Lúc này, người nhà vô cùng sợ hãi, mời thầy tướng đến xem bói. Thầy tướng cho rằng, đứa trẻ này chào đời có điềm lạ, là cát tướng, nên gọi là Thiện Cát. Tu Bồ Đề bản tính từ bi thiện lương, không thích tranh luận”.
Ngài xuất gia tu Đạo, khởi tâm từ bi, nhập vô tranh tam muội, thường hành thiện nghiệp, do đó có tên là Thiện Nghiệp. Sau này ông lập chí quy y cửa Phật, thường thích nhập không định, trở thành 1 trong 10 Đại đệ tử của Đức Phật, nổi tiếng là Giải không đệ nhất. Giáo lý Bát Nhã coi ông là sư tổ.
5. Phú Lâu Na: Thuyết Pháp đệ nhất
Phú Lâu Na dịch nghĩa là Mãn Ý Tử, hoặc Mãn Nguyện Tử, ngài sinh ra ở làng La Na Bạt Đa ngoại ô thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài là con trai của Trưởng giả thành Ca Tỳ La, là cháu của A Nhược Kiều Trần Như. Phụ thân của ông là Quốc sư của vua Tịnh Phạn, nổi danh bậc nhất.
Phú Lâu Na khi còn niên thiếu bị anh trai coi thường, bị bán cho thương gia ti tiện nhất. Hàng ngày, ngoài việc nỗ lực làm việc ra, ông còn thành tâm thờ Phật Đà, không tiếc đem hết tài sản ra để xây dựng Tịnh xá, phát nguyện quy y Phật.
Ngài cực kỳ hiếu học, do giỏi biện luận, thuyết Pháp khéo léo, nổi tiếng là Thuyết Pháp đệ nhất. Sau này ở nước Thâu Lư Na, ông thu nhận 500 đệ tử, và xây dựng 500 tu viện, dốc sức hoằng dương Phật Pháp.
6. Đại Mục Kiền Liên: Thần thông đệ nhất
Thế gian thường gọi ông là Tôn giả Mục Liên, dịch nghĩa là Đại Tán Tụng, hoặc Đại Hồ Đậu. Trong “Tổ đình sự uyển” có nói rằng, ngài “tên Phạn là Đại Mục Kiền Liên, họ Thái Thúc (hái đậu). Tương truyền thời cổ có Tiên, sống ở nơi yên tĩnh trong núi, thường hái đậu xanh để ăn, vì vậy lấy Thái Thúc (hái đậu) làm họ. Mẫu thân của Mục Liên là thuộc dòng họ này.
Mục Liên vốn tên là Câu Luật Đà, sinh ra ở thôn Câu Luật Đà phía bắc thành Vương Xá. Phụ thân là quốc sư của vương gia, mẫu thân ngài mang họ Thái Thúc. Từ nhỏ đã rất thân với Xá Lợi Phất, đã quyết tâm rời thế tục để tu Đạo.
Mục Liên nổi tiếng Thần thông đệ nhất. Vì ngài biết được mẫu thân bị đọa địa ngục, chịu mọi khổ cực, nên ông đã đến gặp Đức Phật, thỉnh cầu cách cứu mẫu thân. Sau đó ngài đã cứu được mẫu thân ra khỏi địa ngục, vì vậy, danh tiếng đại hiếu của Mục Liên truyền đến ngày nay, ai ai cũng biết.
Khi đó, những kẻ ngoại đạo ở trần, có oán xưa với Đức Phật thấy chuyện Mục Liên cứu mẹ nổi tiếng thiên hạ thì họ oán hận trong tâm. Thừa cơ khi Mục Liên ngồi thiền nhập định trong núi Y Hộ Thị Lợi, họ đâm chết ông. Đây là một tổn thất lớn của tăng đoàn của Đức Phật.
7. Ma Ha Ca Chiên Diên: Nghị luận đệ nhất
Ma Ha Ca Chiên Diên là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Văn Sức, cũng gọi là Hảo Kiên. Ngài vốn tên là Na La Đà, là con trai của Trưởng giả của thực ấp A Bàn Đề Di Hầu. Phụ thân ngài là luận sư Vệ Đà học, Ngài kế thừa huyết thống của phụ thân, trở thành một vị Trưởng giả hiền minh.
Sau khi trở thành thành viên trong giáo đoàn của Đức Phật Thích Ca càng hiển hiện tài năng xuất chúng, được ca ngợi là Nghị luận đệ nhất, được mọi người cực kỳ tôn trọng.
Trước đây, sau khi Đức Phật Thích Ca đản sinh, vua Tịnh Phạn mời Tiên nhân A Tư Đà ở núi Tần Đà vào cung, để xem bói cho Thái tử mới chào đời. Vị Tiên nhân này chính là người cậu của Ca Chiên Diên. Ca Chiên Diên từ nhỏ đã ở nhà người cậu, học tập Đạo thuật tứ thiền ngũ thông. Sau này ngài đến Lộc Dã Uyển quy y Đức Phật. Sau khi đắc Đạo, ông chuyên hoằng dương Phật Pháp ở làng quê, được tôn làm ông tổ của Ba Li Văn Điển.
8. A Na Luật: Thiên nhãn đệ nhất
A Na Luật còn có tên là A Ni Lô Đà, là con trai của vua Bạch Phạn, và là em họ của Đức Phật Thích Ca. Ngài thiên chất thông minh mẫn tiệp, khi còn thiếu niên, người ta đã biết ngài ắt sẽ trở thành bậc đại tài. Ở thành Ca Tỳ La Vệ, sau khi được nghe Đức Phật giáo hóa liền phát tâm xuất gia tu Đạo, khẩn thiết yêu cầu Đức Phật đồng ý cho gia nhập hàng ngũ đệ tử.
Một ngày nọ, ngài ngồi trước Đức Phật lơ mơ ngủ gật, bị Đức Phật trách. Ngài liền phát thệ cả đời mặc phấn tảo y (áo rách nhặt từ bãi rác, cắt ghép lại thành áo cà sa), ngày đêm không ngủ. Vì vậy khiến hai mắt ông bị mù. Tinh thần kiên cường không lay chuyển này của ông được mọi người ca ngợi.
Sau ngài có thần thông, được ca ngợi là Thiên nhãn đệ nhất, trở thành 1 trong những người đứng đầu tăng đoàn sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài đứng túc trực trước linh sàng, và tham gia đại nghiệp tập kết kinh điển lần thứ nhất. Công lao của ngài rất lớn.
9. Ưu Bà Ly: Trì giới đệ nhất
Ưu Bà Ly là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Cận Thủ, hoặc Cận Chấp. Ngài xuất thân Đầu Đà La, là dân tộc bị coi là thấp kém nhất ở Ấn Độ thời đó. Ban đầu, ngài làm thợ cắt tóc của thành Vương Xá, nhưng bản tính cực kỳ trung thực, lại nhiệt tâm làm việc, nên được các quan và hoàng gia cung đình tín nhiệm.
Sau này, ngài cùng các công tử của dòng họ Thích Ca phát tâm quy y Đức Phật. Đức Phật truyền giới pháp cho ngài đầu tiên. Sau này, do tinh thông giới luật, đã giải quyết rất nhiều vấn đề nan giải cho tăng đoàn, nên được đứng hàng ngũ đứng đầu tăng đoàn, được ca ngợi là Trì giới đệ nhất.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, sự nghiệp tập kết Phật điển bắt đầu, ngài đảm đương công việc khó nhất là về phương diện Luật tạng. Với tri thức và tài năng xuất chúng, không ngừng nghỉ, ngài đã hoàn thành nhiệm vụ gian nan này.
10. La Hầu La: Mật hạnh đệ nhất
La Hầu La là con trai của Thái tử Tất Đạt Đa (Đức Phật Thích Ca sau này), mẫu thân là Da Du Đà La. Tương truyền khi ngài ở trong bụng mẫu thân những 6 năm, nên đặt tên là La Hầu La. La Hầu La dịch nghĩa là Phúc Chướng, Liêu Tỏa. Có thuyết rằng, ngày La Hầu La ra đời, đúng vào ngày nhật thực, do đó đặt tên này.
3 năm sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành đạo, Ngài cho Xá Lợi Phất và Mục Liên thúc giục La Hầu La xuất gia. La Hầu La bái Xá Lợi Phất làm thầy và gia nhập tăng đoàn. Do ngài nửa chừng chểnh mảng, được Đức Phật giáo huấn, ngài liền phát thệ giữ nghiêm giới luật, dốc sức thực hành Đạo, sau này được ca ngợi là Mật hạnh đệ nhất, quả thực không phụ lòng phụ thân.
Trung Hòa - Theo Visiontimes