Người Phật Tử
  • Tin tức
    • Miền Bắc
    • Miền Trung
    • Miền Nam
    • Quốc tế
    • Vesak
    • Xã hội - Tâm linh
    • Thông báo
  • Tu học
    • Tuổi trẻ - Nhật ký
    • Thiền tông
    • Tịnh độ
    • Mật tông
    • Tìm hiểu - Vấn đáp
    • Luận đàm - Giảng kinh
  • Phật pháp
    • Giáo dục
    • Khoa học
    • Đời sống
    • Nhân vật
  • Nghi lễ
    • Nghi lễ tổng hợp
  • Thư viện
    • Phật giáo Việt Nam
    • Bài giảng - Kinh
    • Phim-Nhạc Phật
    • Thơ -Truyện- Sách
  • Văn hóa
    • Phật sử-Tưởng niệm
    • Ngày truyền thống PG
    • Tác phẩm - Nghệ thuật - Đồ hoạ
    • Giáo dục - Nhân vật - Cộng đồng
    • Văn học - Tùy bút
    • Ý kiến - Trao đổi - Dư luận
    • Xuân
  • Hoằng pháp
    • Giới thiệu kinh - sách
    • Hoằng pháp
  • Tự viện
    • Miền bắc
    • Miền trung
    • Miền nam
    • Quốc tế
  • Ẩm thực
    • Lời Phật dạy
    • Tin tức - Ẩm thực chay
    • Thực phẩm - Thức uống
  • Sức khỏe
  • Từ thiện
    • Tin tức
    • Gương điển hình
    • Cần giúp đỡ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu
    • Bồ Tát & Chư Tăng
    • Người Phật Tử
  • Ấn tống - Cúng dường
  • Video
  • Pháp âm

10 vị đệ tử lớn của Đức Phật là ai, công hạnh như thế nào

10:55 | 22/10/2022 0 bình luận
Thích Facebook
Twitter Linkedin Whatsapp Pinterest Email
Your browser does not support the audio element.
nguoiphattu.com Người Phật tử xin giới thiệu về 10 Đại đệ tử của Đức Phật xuất thân, hành đạo, hạnh nguyện, nhập niết bàn của các Ngài.

Hãy suy nghĩ giống như Tôn giả Phú Lâu Na
Tôn giả Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất hiếu thảo vẹn toàn
Tôn giả A Nan Đà và những câu chuyện thú vị
Chuyện hùng biện ly kỳ của tôn giả Ca Chiên Diên

Dưới đây là vắn tắt cuộc đời của 10 đại cao đồ này của Đức Phật.

Trong các cao đồ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì 10 vị La Hán kiệt xuất nhất là 10 đại đệ tử. Họ là: thứ nhất là Ma Ha Ca Diếp - đệ nhất khổ hạnh; thứ hai là A Nan Đà - đệ nhất đa văn; thứ ba là Xá Lợi Phất - đệ nhất trí tuệ; thứ tư là Tu Bồ Đề - đệ nhất giải không; thứ năm là Phú Lâu Na - đệ nhất thuyết Pháp; thứ sáu là Mục Kiền Liên, đệ nhất thần thông; thứ bảy là Ma Ha Ca Chiên Diên - đệ nhất luận nghĩa; thứ tám là A Na Luật - đệ nhất Thiên nhãn; thứ chín là Ưu Bà Ly - đệ nhất trì giới; thứ mười là La Hầu La - đệ nhất mật hạnh. (Hình ảnh, tôn tượng Thập đại đệ tử Đức Phật tại Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt, Sơn Trà, Đà Nẵng).

ton gia ma ha ca diep.jpg

1. Ma Ha Ca Diếp: Khổ hạnh đệ nhất (Đầu đà đệ nhất)

Ngài chuyên tu đầu đà hạnh, Ngài là bộ óc chính của lần tập kết kinh điển lần thứ nhất. Do hoàn thành nhiệm vụ tập kết kinh điển lần này, nên danh tiếng của Ma Ha Ca Diếp (cũng gọi là Đại Ca Diếp) vang danh thiên hạ. Tên đầy đủ của là Ma Ha Ca Diếp Bà, sinh ở làng Ma Ha Bà La, gần thành Vương Xá, miền trung Ấn Độ. Phụ thân của là đại phú ông nổi tiếng của Bà La Môn giáo, cha mẹ ông kết hôn nhiều năm mà vẫn chưa có con, thế là họ đến trước cây bồ đề (pipala) cầu sinh con. Thế là sinh ra Ma Ha Ca Diếp, đặt nhũ danh là Pipalayana.

Đứa trẻ này sinh ra có 32 tướng tốt, mỗi hành vì cử chỉ đều khác người bình thường. Năm 8 tuổi, cậu bé thọ giới Bà La Môn. Sau đó nhanh chóng tinh thông những huyền diệu trong pháp môn.

Một ngày, nghe đến danh tiếng của Phật Thích Ca, Ngài liền tìm đến gia nhập tăng đoàn. Ngài là người biết đủ, ít ham muốn, chuyên tâm tu hành, dó đó được xưng là Đầu đà đệ nhất. Khi Đức Thế Tôn nhập diệt, đúng lúc ngài đi vân du ở phương bắc xa xôi. Sau khi được báo tin buồn này, ngài lập tức đi suốt ngày đêm.

ton gia a nan da.jpg

2. A Nan Đà: Đa văn đệ nhất

Tôn giả A Nan Đà, cũng gọi là A Nan, hoặc Nan Đà, sinh ở thành Ca Tỳ La Vệ, là em trai của Bà Đạt Đa. Ngài là con trai của Cam Lộ Phạn Vương, và là em họ của Đức Phật Thích Ca.

Thuở nhỏ, ngài theo học Thập Lực Ca Diếp, dựa theo lời trung của Bạt Kỳ Tử mà đắc Đạo. Khi Đức Phật Thích Ca 55 tuổi thì ngài bắt đầu bước vào Phật môn, phụng sự Đức Phật trong thời gian dài 25 năm. Khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả A Nan và A Miện Lâu Đà túc trực ở bên, chuyên tâm chăm sóc.

Tôn giả A Nan vốn học rộng, có trí nhớ tốt, nghe 1 biết 10, do đó được gọi là Đa văn đệ nhất. Trong đại sự tập kết kinh điển, đại bộ phận kinh văn đều dựa vào trí nhớ của ngài mà được truyền miệng. Ngài thiên tính từ bi ôn hòa, dung mạo tuấn tú, được phụ nữ rất ái mộ, cũng vì thế mà ngài liên tiếp gặp tai họa nạn nữ nhân.

20 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả A Nan thấy Đại Ca Diếp đã thị tịch ở núi Kê Túc, bắt đầu cảm nhận thời gian ra đi của mình cũng đã đến gần. Ngài bèn triệu tập 500 tỳ kheo đến bên bờ sông Hằng, đưa ra lời dạy bảo cuối cùng, rồi ngài ung dung viên tịch ở tuổi 120. Di cốt của ngài được mai táng ở bên Tịnh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá.

ton gia xa loi phat.jpg

3. Xá Lợi Phất: Trí tuệ đệ nhất

Tôn giả Xá Lợi Phất vốn tên là Ưu Bà Để Sa, tên đầy đủ là Xá Lợi Phất Đa La. Về nguồn gốc cái tên Xá Lợi Phất, trong “Đại trí độ luận” có viết: “Vua Ma Đà La có một con gái, mắt cô rất giống mắt chim xá lợi (một loài thủy cẩm), do đó cô được đặt tên là Xá Lợi. Cô được gả cho Đế Sa, sinh ra một con trai, đặt tên là Xá Lợi Phất Đa La (thường gọi tắt là Xá Lợi Phất). Do chữ “phất đa la” nghĩa là con trai, nên tên của ngài nghĩa là “Con trai của Xá Lợi”.

Thuở nhỏ, ngài được sự giáo dục của phụ thân bác học đa tài và mẫu thân hiền minh, do đó ngài tinh thông bách khoa kỹ nghệ. Ngài cùng người bạn là Câu Luật Đà (tức Mục Kiền Liên) có rất nhiều đệ tử, và có thanh thế khá lớn. Một ngày, ngài gặp tỳ kheo Mã Thắng, được biết đến danh của Đức Phật Thích Ca, lập tức vô cùng ngưỡng mộ, liền dẫn trên 350 đệ tử đến Tịnh xá Trúc Lâm quy y Đức Phật, thọ giới cụ túc.

Cả 6 anh chị em đều xuất gia, trở thành đệ tử của Đức Phật. Lúc này, vì Xá Lợi Phất quy y, khiến uy đức của Đức Phật càng nổi danh, khiến thế lực của giáo đoàn càng mở rộng. Đức Phật khen ngợi, gọi ngài là Pháp Tướng. Vì thế, Xá Lợi Phất đứng đầu trong các đệ tử, được gọi là Trí tuệ đệ nhất.

Xá Lợi Phất nhập diệt trước Đức Phật. Khi ngài cảm thấy thời gian nhập Niết bàn của mình đã đến gần, bèn quay về cố hương, an tọa trong phòng, thanh tâm tĩnh trí. Tương truyền sau này ngài được danh hiệu Hóa Quang Phật, và lại đến nhân gian để làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.

ton gia tu bo de.jpg

4. Tu Bồ Đề: Giải không đệ nhất

Tu Bồ Đề dịch nghĩa là Thiện Cát, Không Sinh, Thiện Nghiệp, sinh ra ở thành Xá Vệ, là em trai của Trưởng lão Cấp Cô Độc, là con trai của Trưởng giả Tu Ma Na. Về nguồn gốc cái tên của ngài, trong “Tịnh danh sớ” có ghi chép rằng: “Khi chào đời, trong nhà Tu Bồ Đề tất cả đều là không, do đó gọi là Không Sinh. Lúc này, người nhà vô cùng sợ hãi, mời thầy tướng đến xem bói. Thầy tướng cho rằng, đứa trẻ này chào đời có điềm lạ, là cát tướng, nên gọi là Thiện Cát. Tu Bồ Đề bản tính từ bi thiện lương, không thích tranh luận”.

Ngài xuất gia tu Đạo, khởi tâm từ bi, nhập vô tranh tam muội, thường hành thiện nghiệp, do đó có tên là Thiện Nghiệp. Sau này ông lập chí quy y cửa Phật, thường thích nhập không định, trở thành 1 trong 10 Đại đệ tử của Đức Phật, nổi tiếng là Giải không đệ nhất. Giáo lý Bát Nhã coi ông là sư tổ.

ton gia phu lau na.jpg

5. Phú Lâu Na: Thuyết Pháp đệ nhất

Phú Lâu Na dịch nghĩa là Mãn Ý Tử, hoặc Mãn Nguyện Tử, ngài sinh ra ở làng La Na Bạt Đa ngoại ô thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài là con trai của Trưởng giả thành Ca Tỳ La, là cháu của A Nhược Kiều Trần Như. Phụ thân của ông là Quốc sư của vua Tịnh Phạn, nổi danh bậc nhất.

Phú Lâu Na khi còn niên thiếu bị anh trai coi thường, bị bán cho thương gia ti tiện nhất. Hàng ngày, ngoài việc nỗ lực làm việc ra, ông còn thành tâm thờ Phật Đà, không tiếc đem hết tài sản ra để xây dựng Tịnh xá, phát nguyện quy y Phật.

Ngài cực kỳ hiếu học, do giỏi biện luận, thuyết Pháp khéo léo, nổi tiếng là Thuyết Pháp đệ nhất. Sau này ở nước Thâu Lư Na, ông thu nhận 500 đệ tử, và xây dựng 500 tu viện, dốc sức hoằng dương Phật Pháp.

ton gia muc kien lien .jpg

6. Đại Mục Kiền Liên: Thần thông đệ nhất

Thế gian thường gọi ông là Tôn giả Mục Liên, dịch nghĩa là Đại Tán Tụng, hoặc Đại Hồ Đậu. Trong “Tổ đình sự uyển” có nói rằng, ngài “tên Phạn là Đại Mục Kiền Liên, họ Thái Thúc (hái đậu). Tương truyền thời cổ có Tiên, sống ở nơi yên tĩnh trong núi, thường hái đậu xanh để ăn, vì vậy lấy Thái Thúc (hái đậu) làm họ. Mẫu thân của Mục Liên là thuộc dòng họ này.

Mục Liên vốn tên là Câu Luật Đà, sinh ra ở thôn Câu Luật Đà phía bắc thành Vương Xá. Phụ thân là quốc sư của vương gia, mẫu thân ngài mang họ Thái Thúc. Từ nhỏ đã rất thân với Xá Lợi Phất, đã quyết tâm rời thế tục để tu Đạo.

Mục Liên nổi tiếng Thần thông đệ nhất. Vì ngài biết được mẫu thân bị đọa địa ngục, chịu mọi khổ cực, nên ông đã đến gặp Đức Phật, thỉnh cầu cách cứu mẫu thân. Sau đó ngài đã cứu được mẫu thân ra khỏi địa ngục, vì vậy, danh tiếng đại hiếu của Mục Liên truyền đến ngày nay, ai ai cũng biết.

Khi đó, những kẻ ngoại đạo ở trần, có oán xưa với Đức Phật thấy chuyện Mục Liên cứu mẹ nổi tiếng thiên hạ thì họ oán hận trong tâm. Thừa cơ khi Mục Liên ngồi thiền nhập định trong núi Y Hộ Thị Lợi, họ đâm chết ông. Đây là một tổn thất lớn của tăng đoàn của Đức Phật.

ton gia ca chien dien.jpg

7. Ma Ha Ca Chiên Diên: Nghị luận đệ nhất

Ma Ha Ca Chiên Diên là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Văn Sức, cũng gọi là Hảo Kiên. Ngài vốn tên là Na La Đà, là con trai của Trưởng giả của thực ấp A Bàn Đề Di Hầu. Phụ thân ngài là luận sư Vệ Đà học, Ngài kế thừa huyết thống của phụ thân, trở thành một vị Trưởng giả hiền minh.

Sau khi trở thành thành viên trong giáo đoàn của Đức Phật Thích Ca càng hiển hiện tài năng xuất chúng, được ca ngợi là Nghị luận đệ nhất, được mọi người cực kỳ tôn trọng.

Trước đây, sau khi Đức Phật Thích Ca đản sinh, vua Tịnh Phạn mời Tiên nhân A Tư Đà ở núi Tần Đà vào cung, để xem bói cho Thái tử mới chào đời. Vị Tiên nhân này chính là người cậu của Ca Chiên Diên. Ca Chiên Diên từ nhỏ đã ở nhà người cậu, học tập Đạo thuật tứ thiền ngũ thông. Sau này ngài đến Lộc Dã Uyển quy y Đức Phật. Sau khi đắc Đạo, ông chuyên hoằng dương Phật Pháp ở làng quê, được tôn làm ông tổ của Ba Li Văn Điển.

ton gia a na luat.jpg

8. A Na Luật: Thiên nhãn đệ nhất

A Na Luật còn có tên là A Ni Lô Đà, là con trai của vua Bạch Phạn, và là em họ của Đức Phật Thích Ca. Ngài thiên chất thông minh mẫn tiệp, khi còn thiếu niên, người ta đã biết ngài ắt sẽ trở thành bậc đại tài. Ở thành Ca Tỳ La Vệ, sau khi được nghe Đức Phật giáo hóa liền phát tâm xuất gia tu Đạo, khẩn thiết yêu cầu Đức Phật đồng ý cho gia nhập hàng ngũ đệ tử.

Một ngày nọ, ngài ngồi trước Đức Phật lơ mơ ngủ gật, bị Đức Phật trách. Ngài liền phát thệ cả đời mặc phấn tảo y (áo rách nhặt từ bãi rác, cắt ghép lại thành áo cà sa), ngày đêm không ngủ. Vì vậy khiến hai mắt ông bị mù. Tinh thần kiên cường không lay chuyển này của ông được mọi người ca ngợi.

Sau ngài có thần thông, được ca ngợi là Thiên nhãn đệ nhất, trở thành 1 trong những người đứng đầu tăng đoàn sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài đứng túc trực trước linh sàng, và tham gia đại nghiệp tập kết kinh điển lần thứ nhất. Công lao của ngài rất lớn.

ton gia uu ba ly.jpg

9. Ưu Bà Ly: Trì giới đệ nhất

Ưu Bà Ly là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Cận Thủ, hoặc Cận Chấp. Ngài xuất thân Đầu Đà La, là dân tộc bị coi là thấp kém nhất ở Ấn Độ thời đó. Ban đầu, ngài làm thợ cắt tóc của thành Vương Xá, nhưng bản tính cực kỳ trung thực, lại nhiệt tâm làm việc, nên được các quan và hoàng gia cung đình tín nhiệm.

Sau này, ngài cùng các công tử của dòng họ Thích Ca phát tâm quy y Đức Phật. Đức Phật truyền giới pháp cho ngài đầu tiên. Sau này, do tinh thông giới luật, đã giải quyết rất nhiều vấn đề nan giải cho tăng đoàn, nên được đứng hàng ngũ đứng đầu tăng đoàn, được ca ngợi là Trì giới đệ nhất.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, sự nghiệp tập kết Phật điển bắt đầu, ngài đảm đương công việc khó nhất là về phương diện Luật tạng. Với tri thức và tài năng xuất chúng, không ngừng nghỉ, ngài đã hoàn thành nhiệm vụ gian nan này.


ton gia la hau la.JPEG

10. La Hầu La: Mật hạnh đệ nhất

La Hầu La là con trai của Thái tử Tất Đạt Đa (Đức Phật Thích Ca sau này), mẫu thân là Da Du Đà La. Tương truyền khi ngài ở trong bụng mẫu thân những 6 năm, nên đặt tên là La Hầu La. La Hầu La dịch nghĩa là Phúc Chướng, Liêu Tỏa. Có thuyết rằng, ngày La Hầu La ra đời, đúng vào ngày nhật thực, do đó đặt tên này.

3 năm sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành đạo, Ngài cho Xá Lợi Phất và Mục Liên thúc giục La Hầu La xuất gia. La Hầu La bái Xá Lợi Phất làm thầy và gia nhập tăng đoàn. Do ngài nửa chừng chểnh mảng, được Đức Phật giáo huấn, ngài liền phát thệ giữ nghiêm giới luật, dốc sức thực hành Đạo, sau này được ca ngợi là Mật hạnh đệ nhất, quả thực không phụ lòng phụ thân.

Trung Hòa - Theo Visiontimes

thập đại đệ tử phật 10 đệ tử lớn của đức phật đức phật thích ca mâu ni tu bồ đề phú lâu na ma ha ca diếp a nan đà xá lợi phất mục kiền liên ma ha ca chiên diên a na luật

Viết bình luận

Lưu ý : Các ý kiến viết bằng ngoại ngữ, tiếng Việt không dấu hoặc có tính chất quảng cáo sẽ không được đăng.
Cám ơn sự đóng góp và quan tâm của quý vị.

TIN LIÊN QUAN

Tổ sư Như Hiển Chí Thiền - Tổ đình Phi Lai

Tổ sư Như Hiển Chí Thiền - Tổ đình Phi Lai

Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1696-1733)

Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1696-1733)

Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn Lý

Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn Lý

Tiểu sử Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905 – 1997)

Tiểu sử Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905 – 1997)

Vũ khí kim cang của cư sĩ

Vũ khí kim cang của cư sĩ

Tiểu sử Ni trưởng Thích Nữ Như Thanh (1911 - 1999)

Tiểu sử Ni trưởng Thích Nữ Như Thanh (1911 - 1999)

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1915 - 2005)

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1915 - 2005)

Hòa thượng Tinh Vân lưu xá lợi sau lễ trà tỳ

Hòa thượng Tinh Vân lưu xá lợi sau lễ trà tỳ

Ni trưởng Thích nữ Diệu Hương (1884 - 1971)

Ni trưởng Thích nữ Diệu Hương (1884 - 1971)

Tiểu sử và hành trạng Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết

Tiểu sử và hành trạng Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết

Đức đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết – Đệ nhất Tăng thống GHPGVN TN

Đức đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết – Đệ nhất Tăng thống GHPGVN TN

Đôi nét về Đại lão Hòa thượng Tinh Vân và Phật Quang Sơn

Đôi nét về Đại lão Hòa thượng Tinh Vân và Phật Quang Sơn

Bài viết xem nhiều

Phật lịch là gì, năm 2022 là Phật lịch bao nhiêu?

Phật lịch là gì, năm 2022 là Phật lịch bao nhiêu?

Lễ nhập tự chùa Phúc Điền - Hà Tĩnh

Lễ nhập tự chùa Phúc Điền - Hà Tĩnh

Quan điểm của Phật giáo về nữ giới

Quan điểm của Phật giáo về nữ giới

Quan niệm của đức Phật với nữ giới như thế nào?

Quan niệm của đức Phật với nữ giới như thế nào?

Những hiện tượng xảy ra khi Đức Phật nhập vô dư Niết bàn

Những hiện tượng xảy ra khi Đức Phật nhập vô dư Niết bàn

Khai thị của Đại sư Tinh Vân cho giới tử xuất gia ngắn hạn

Khai thị của Đại sư Tinh Vân cho giới tử xuất gia ngắn hạn

Vai trò của người cư sĩ Phật tử

Vai trò của người cư sĩ Phật tử

Ngài Gyalwang Drukpa thứ 12 có được gọi là Pháp vương?

Ngài Gyalwang Drukpa thứ 12 có được gọi là Pháp vương?

  • Tin tức
  • Miền Bắc
  • Miền Trung
  • Miền Nam
  • Quốc tế
  • Vesak
  • Xã hội - Tâm linh
  • Thông báo
  • Tu học
  • Tuổi trẻ - Nhật ký
  • Thiền tông
  • Tịnh độ
  • Mật tông
  • Tìm hiểu - Vấn đáp
  • Luận đàm - Giảng kinh
  • Phật pháp
  • Giáo dục
  • Khoa học
  • Đời sống
  • Nhân vật
  • Nghi lễ
  • Nghi lễ tổng hợp
  • Thư viện
  • Phật giáo Việt Nam
  • Bài giảng - Kinh
  • Phim-Nhạc Phật
  • Thơ -Truyện- Sách
  • Văn hóa
  • Phật sử-Tưởng niệm
  • Ngày truyền thống PG
  • Tác phẩm - Nghệ thuật - Đồ hoạ
  • Giáo dục - Nhân vật - Cộng đồng
  • Văn học - Tùy bút
  • Ý kiến - Trao đổi - Dư luận
  • Xuân
  • Hoằng pháp
  • Giới thiệu kinh - sách
  • Hoằng pháp
  • Tự viện
  • Miền bắc
  • Miền trung
  • Miền nam
  • Quốc tế
  • Ẩm thực
  • Lời Phật dạy
  • Tin tức - Ẩm thực chay
  • Thực phẩm - Thức uống
  • Từ thiện
  • Tin tức
  • Gương điển hình
  • Cần giúp đỡ
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Facbook
  • Youtube
  • Twitter
  • Copyright NGUOIPHATTU.VN
Thời gian truy vấn : 0,1562525 s