;
Để rộng đường, xin giới thiệu bài viết trên trang [ehipassiko.info]
-------------------------
Ai là Bhikkhu – Tỳ Khưu
Ngày nay, Bhikkhu – Tỳ Khưu là danh từ dùng để nói về vị Tu Sĩ xuất gia, đã được thọ đại lễ tu lên bậc trên đúng Pháp đúng Luật, trong Phật giáo Nguyên thủy Theravada.
Trong Tạng Luật, bộ Phân Tích có định nghĩa “Tỳ Khưu – Bhikkhu” được sử dụng trong Tạng Luật có nghĩa là:
“Ở ĐÂY, VỊ TỲ KHƯU ĐÃ ĐƯỢC TU LÊN BẬC TRÊN VỚI HỘI CHÚNG HỢP NHẤT, BẰNG HÀNH SỰ CÓ LỜI THÔNG BÁO ĐẾN LẦN THỨ TƯ, KHÔNG SAI SÓT, ĐÁNG ĐƯỢC DUY TRÌ, VỊ NÀY LÀ “VỊ TỲ KHƯU” ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG Ý NGHĨA NÀY.” (Xem chi tiết tại phần chú thích[1])
Ngoài ra, trong bộ Phân Tích đó cũng nêu các ý nghĩa khác, dùng trong xã hội Ấn Độ thời kỳ Đức Phật còn tại thế, về danh từ “Tỳ Khưu – Bhikkhu” như sau:
“Tỳ khưu:
“Vị đi khất thực” là tỳ khưu.
“Vị chấp nhận việc đi khất thực” là tỳ khưu.
“Vị mặc y đã được cắt rời” là tỳ khưu.
Là tỳ khưu do sự thừa nhận.
Là tỳ khưu do tự mình xác nhận.
Là tỳ khưu khi được (đức Phật) nói rằng: “Này tỳ khưu, hãy đi đến (ehi bhikkhu).”
“Vị đã tu lên bậc trên bằng Tam Quy” là tỳ khưu.
“Vị hiền thiện” (bhadro) là tỳ khưu.
“Vị có thực chất” (sāro) là tỳ khưu.
“Vị thánh hữu học” (sekho) là tỳ khưu.
“Vị thánh vô học” (asekho) là tỳ khưu.
“Vị đã được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy trì” là tỳ khưu.
Ở đây, vị tỳ khưu đã được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất, bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy trì, vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.”
Còn theo trong Kinh Tạng thì Tỳ Khưu Bhikkhu còn có nghĩa là “Bất kỳ ai thấy rõ hiểm nguy trong sanh tử luân hồi, chấp nhận và thực hành những lời dạy của Ðức Phật đều được gọi là Bhikkhu” [2], như trong bài giảng của Thiền sư Silananda dưới đây:
✽✽✽✽✽
Ðức Phật thường gọi các tu sĩ là Bhikkhu – Tỳ khưu. Bhikkhu có nhiều nghĩa trong đó có một nghĩa là khất sĩ, là những người xin ăn. Nhưng xin ăn ở đây không có nghĩa như xin ăn thông thường. Lúc đi khất thực thầy tỳ khưu đứng trước nhà thí chủ và không hỏi xin gì cả. Người thí chủ có tâm thành tự nguyện đem thực phẩm cúng dường cho vị khất sĩ để tạo duyên lớn.
Như vậy Bhikkhu là vị khất sĩ cao thượng hay vị khất sĩ thánh thiện chứ không phải là người xin ăn thông thường.
Chữ Bhikkhu còn có nghĩa là những người thấy rõ hiểm nguy trong sanh tử luân hồi. Căn cứ trên định nghĩa này thì không phải chỉ có nhà sư mới được gọi là Bhikkhu mà bất kỳ người cư sĩ nào thấy rõ hiểm nguy của sanh tử luân hồi đều được gọi là Bhikkhu.
Bởi vậy, trong khi giảng giải Kinh Ðại Niệm Xứ tôi thường dùng chữ Bhikkhu mà không dùng chữ Nhà Sư; bởi vì nếu tôi dùng chữ Nhà Sư để dịch chữ Bhikkhu thì một số người sẽ nghĩ rằng kinh này chỉ dành riêng cho Nhà Sư mà thôi.
Tại sao Ðức Phật thường dùng chữ Bhikkhu trong các bài giảng của Ngài? Bởi vì Ðức Phật sống trong tu viện với các Thầy Tỳ Khưu nên mỗi khi dạy đạo, Ngài gọi các thầy là Bhikkhu. Dĩ nhiên lúc Ngài dạy đạo, trong chùa cũng có một số cư sĩ, nhưng phần lớn vẫn là các Tỳ Khưu tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài. Ðó là lý do tại sao Ðức Phật thường dùng chữ Bhikkhu. Có lúc Ðức Phật cũng dùng chữ Bhikkhave.
Kinh Ðại Niệm Xứ được thuyết tại xứ Kuru, một xứ gần New Delhi, Ấn Ðộ ngày nay. Lúc kinh được thuyết ra, có rất nhiều cư sĩ nghe và hành theo.
Theo chú giải thì dân chúng trong Xứ Kuru tinh tấn thực hành Tứ Niệm Xứ. Khi gặp nhau họ thường hỏi: Trong bốn pháp chánh niệm của Tứ Niệm Xứ, bạn thực hành pháp nào? Nếu người được hỏi trả lời không, thì dân xứ đó sẽ khiển trách và bắt đầu dạy họ cách hành thiền.
Nhưng nếu họ trả lời rằng họ đã quán sát thân, quán sát thọ… như thế này, thế này… thì họ sẽ được mọi người khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Ðời sống bạn thật nhiều phúc lạc, thật giá trị. Bạn đã sử dụng tốt đẹp kiếp sống làm người của mình. Chính vì những người như bạn mà Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian này”.
Như vậy, khi dùng chữ Bhikkhu không có nghĩa là Ðức Phật không nói đến những người không phải là tu sĩ. Bất kỳ ai chấp nhận và thực hành những lời dạy của Ðức Phật đều được gọi là Bhikkhu.
Bởi vậy, khi Ðức Phật nói: “Này các thầy tỳ khưu” thì phải được hiểu là cả tăng, ni và người tại gia cư sĩ đều được nói đến.
Nguồn trích dẫn: Giới thiệu Kinh Ðại Niệm Xứ – Thiền sư Silananda – Tỳ khưu Khánh Hỷ soạn dịch
✽✽✽✽✽
Chú thích:
[1] Theo Tạng Luật, Bhikkhu: Tỳ khưu được thành tựu do chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại nơi sīmā tụng ñatticatuttha–kammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), nâng đỡ vị giới tử Sadi lên trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) đúng theo luật của Đức Phật.
Trong Chú giải bộ Cūḷavagga giảng giải. Để thành tựu Bhikkhu (Tỳ khưu) cần phải hội đủ 5 chi pháp:
1– Vatthusampatti: Người cận sự nam không phạm lỗi, không thuộc về những hạng người bị cấm xuất gia trở thành Tỳ khưu.
2– Ñattisampatti: Khi Tỳ khưu Luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong ñatti.
3– Anusāsanasampatti: Vị Tỳ khưu Luật sư tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong kamma–vācā.
4– Sīmāsampatti: Chỗ ranh giới của sīmā hoàn toàn đúng theo Luật của Đức Phật chế định.
5– Purisasampatti: Chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā cần phải có đủ số lượng. Ngoài Trung xứ Ấn Độ ra, các vùng biên địa hoặc xứ khác (như nước Việt Nam) chư Tỳ khưu Tăng cần phải có 5 vị trở lên. 5 vị Tỳ khưu ấy phải là Tỳ khưu thật.
Khi chư Tỳ khưu Tăng hành tăng sự, tụng ñatticatutthakammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) vừa chấm dứt, đồng thời giới tử Sadi cũng trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) trong Phật giáo.
[2] Theo Ngài Hộ Pháp, Nền tảng Phật giáo, Quyển 3 – Hành Giới:
* Nghĩa Bhikkhu theo văn phạm Pāḷi
– Bhikkhati sīlenā’ti Bhikkhu: Bậc có thói quen thường đi khất thực để nuôi mạng gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.
– Saṃsāre bhayaṃ ikkhatī’ti Bhikkhu: Bậc thấy rõ sự tai họa trong vòng tử sinh luân hồi gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.
* Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Kinh
Trong Chú giải kinh Đại Tứ Niệm Xứ dạy:
“Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so Bhikkhu nāma hotī’ti paṭipattiyā Bhikkhubhāvadassanato pi “Bhikkhu”([2]).
“Hành giả nào thực hành Pháp Hành (Tứ niệm xứ) này, hành giả ấy được gọi là Tỳ khưu. Tỳ khưu chính là hành giả thực hành Pháp Hành (Tứ niệm xứ).”
“Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā Bhikkhū’ti saṅkhyaṃ gacchatiyeva”.
“Hành giả thực hành Pháp Hành (Tứ niệm xứ), dù là chư thiên hoặc nhân loại cũng đều được xem là Tỳ khưu cả thảy”.
Như vậy, Tỳ khưu theo ý nghĩa Tạng Kinh chính là hành giả thực hành Pháp Hành (Tứ niệm xứ).