A. Lời nói đầu
Cuộc đời hoằng pháp của Đức Thích Ca được nhân loại chiêm ngưỡng, khảo
nghiệm dưới nhiều góc độ: giải thoát học, tôn giáo học, khoa học, triết
học, sử học... Song, tất cả đều có chung một mẫu số rằng: "Suốt 25 thế
kỷ qua, Đức Phật, người sáng lập ra đạo Phật, luôn được coi là một trong
những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại".
Bằng tuệ giác siêu việt đạt được trong đêm hành đạo, Đức Phật trải gót
khắp xứ Ấn Độ, đem hạt giác ngộ gieo khắp "đất tâm", muốn tất cả chúng
sanh đều được giác ngộ như chính Ngài. Và chẳng bao lâu, hoa trái giác
ngộ rộ nở khắp nơi, tạo thành vườn đạo lý hiện hữu sinh động giữa cuộc
đời và liên tục phát triển trên khắp năm châu cho đến ngày nay.
B. Nội dung khái quát về Đức Phật
Sống giam mình trong ngục thất vàng ngọc, và bị ràng buộc bởi tình ái
thê nhi, Thái tử Siddhattha (Sĩ Đạt Đa) vẫn không có được chút thảnh
thơi, an lạc. Cuộc sống luôn bị rình rập bởi già, bệnh, chết, sầu, bi,
khổ, ưu não; chàng quyết định từ bỏ vinh hoa phú quý, làm vị Sa môn vô
gia cư để tìm đường giải thoát, cứu mình và nhân xưng.
Gần một năm theo học với hai đạo sĩ Alara Kalama, lãnh đạo phái
Samkhya ở thành Vesali (Phệ Xá Ly) và với Uddaka Ramaputta, lãnh tụ phái
Yoga (Du già) tại kinh đô Rajagaha (Vương Xá), Sa môn Gotama đã quán
triệt tất cả những gì hai đạo sĩ đạt được, nhưng Ngài không thỏa mãn; vì
cho rằng chúng chưa phải là quả vị giác ngộ tối thượng. Ngài quyết định
từ bỏ hai đạo sĩ, sau đó cùng với 5 đệ tử của Uddaka là Kondanna,
Bhaddya, Vappa, Mahanama và Assaji xuôi về Nam, đến Uruvela (Ưu Lâu Tần
Loa) lập cứ tu hành. Cuộc tìm kiếm chân lý trên đường khổ hạnh kéo dài
sáu năm, kết quả cũng chẳng có gì ngoài những cảm giác đớn đau, kiệt
sức, ngất xỉu.... Ngài một lần nữa chối bỏ pháp tu (khổ hạnh) vô nghĩa
và "tự mình thắp đuốc lên mà đi".
Sau 49 ngày đêm tư duy thiền quán dưới cội cây Assatha, và một đêm,
khi sao mai vừa ló dạng, tuệ giác siêu việt bừng sáng nội tâm, Sa môn
Gotama chứng Vô thượng Chánh đẳng giác (Anuttara samma samboddhi), được
trời, người cung kính với 10 tôn hiệu: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên
Sahampati (Tự Tại Thiên), Thế Tôn rời cội bồ đề, bắt đầu cuộc hành trình
dài 45 năm, truyền bá đạo giác ngộ.
Hình ảnh một Thái tử sống trong nhung lục với vợ đẹp, con xinh, nhận
thức được sự thật cuộc đời, vượt thành xuất gia làm Sa môn, khổ hạnh,
cuối cùng tự tu, tự chứng ngộ, nắm được quy luật vận hành của vũ
trụ-nhân sinh, đã trở thành thiên sử kỳ diệu vô tiền khoán hậu trong
lịch sử tôn giáo của nhân loại. Thiên sử ấy là bản hùng ca, là khúc khải
hoàn trác tuyệt vang vọng trong sự sống suốt gần 3 thiên kỷ nay với
những cung bậc đầy âm điệu, vừa nhân thế, vừa siêu thế qua các điểm dưới
đây.
I. Ý nghĩa thành đạo:
1. Thế Tôn - bậc Thánh khai sáng đạo Phật - là một người như bao nhiêu
con người, tự giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộ ấy dạy lại cho con
người. Ngài không phải là Thượng đế, thiên sứ hay thần linh ở một thế
giới xa xăm nào xuất hiện giữa cuộc đời. Đức Phật dạy, nếu ai hiểu một
cách chân chính về Ngài thì hãy hiểu rằng, Ngài là vị hữu tình không có
si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người
(Trung Bộ I, kinh số 4, Tr.53). Chân lý được Thế Tôn chứng ngộ, do đó,
cũng ở ngay trong thế giới (hơn 5 tỷ người) này. Chân lý đó là những quy
luật vận hành của vũ trụ-nhân sinh (định lý Duyên khởi -
Paticcasamuppada). Nó tồn tại khách quan trong sự sống, Đức Phật dù xuất
hiện hay không xuất hiện ở đời, nó vẫn luôn vận hành như vậy (Tương Ưng
Bộ kinh II, Chương I, phẩm 2, tr.51). Định lý này thật là sâu kín, khó
thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu; chỉ có
người trí mới hiểu thấu (kinh Trường Bộ I, số 13, tr.486).
2. Với ý nghĩa đó, Đức Phật là người "thấy" được chân lý mà không phải
tạo dựng ra chân lý. Ngài cực lực phản đối những luận điệu cho rằng
ngài là người sáng tạo ra một học thuyết. Tỳ kheo Sunakkhatta là người
mắc phải sai lầm nghiêm trọng này khi phát biểu giáo lý của Đức Phật
được hình thành là do quá tình suy tư, phán đoán, suy luận, mường tượng
rồi sau đó kiểm nghiệm, phổ biến và thuyết giảng. Và tất nhiên, Đức Phật
đã cải chính sự hiểu biết sai lệch này (Trung Bộ I, kinh số 22,
tr.161).
3. Sống trong sự hưởng thụ dục lạc (khi còn ở cung) không có hạnh phúc
chân thật, nhưng ép sát khổ hạnh (lúc tu với 5 anh em Kondanna) cũng
chẳng được an vui. Từ bỏ hai cực đoan này, thực hành Bát chánh đạo, Thế
Tôn tìm được an lạc trên con đường này. Và đây cũng là Trung đạo đưa đến
sự chứng ngộ tối thượng (Trung Bộ I, kinh số 9, tr. 111; Tương Ưng 4,
chương 8, tr.518).
4. Từ bỏ hai đạo sĩ thời danh và 5 người bạn đồng tu để "tự mình thắp
đuốc lên mà đi", là bài pháp thân giáo sinh động, thể hiện sự tự tu, tự
chứng ngộ của bậc Đạo Sư, cho chúng ta đang tiến bước trên lộ trình giải
thoát giác ngộ. Ngài luôn dạy đừng giao phó thân mạng, tư tưởng, lý
tưởng, mục đích sống cho bất cứ ai chủ thuyết nào, ý hệ nào dù chúng đã
trở thành truyền thống, tập tục; vì chỉ có mình là chủ nhân tác nghiệp,
tạo nên khổ đau hay hạnh phúc. Từ kinh nghiệm tu chứng bản thân, Đức
Phật dạy các đệ tử hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình
nương tựa nơi chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm
ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ có nương tựa một gì
khác (Trường Bộ I, kinh số 15, tr. 584; kinh Tương Ưng III, chương I,
phẩm 5, tr.83).
5. Mặt khác, "tự mình thắp đuốc lên mà đi" cũng có nghĩa là tự bên
trong mỗi con người, vì rằng "tất cả chúng sinh đều có Phật tính" (Nhất
thiết chúng sinh giai hữu Phật tính - kinh Pháp Hoa), tức là ai cũng có
khả năng thành Phật. Tiến trình đạt đến quả vị Phật là tiến trình chiến
đấu với tự thân, chiến đấu với vô minh (avijjà) và ái dục (tanhà). Đức
Phật tuyên bố: Biển có thể cạn, núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng
hoại, nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và
ái dục (Tương Ưng III, chương 1, phẩm 5, tr. 267). Ngài đã đoạn trừ được
vô minh và ái dục, nên Ngài là bậc tối tôn ở đời; Ngài thân dù ở trong
muôn loài, tâm đã cao thượng trên tất cả muôn loài.
6. Một yếu tố tối trọng ảnh hưởng đến việc thành đạo của Thế Tôn:
Chánh tinh tấn. Bốn mươi chín ngày đêm ròng rã tĩnh tọa dưới cội bồ đề
là biểu hiện của sự kiên trì, tinh tấn, nhờ tinh tấn mà Thế Tôn chứng
được đạo quả. Cảnh giới Niết bàn không có bóng dáng của kẻ biếng lười,
cánh cửa giải thoát cũng không hé mở cho người không có sức mạnh tinh
tấn.
7. Từ góc độ lịch sử, sự kiện thành đạo của Thế Tôn là điểm son trong
lịch sử tôn giáo của nhân loại, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của
nhân bản, bình đẳng, vô ngã và từ bi. Bậc thầy vĩ đại của nhân loại xuất
hiện từ đây, đạo Phật - đạo giải thoát vì hạnh phúc cho muôn loài -
cũng bắt đầu từ đây.
II. Thánh hạnh vĩ đại của Đức Phật
Với thánh cách vô thượng và thánh hạnh vô song, Thế Tôn đã du hành qua
nhiều quốc gia, cảm hóa được nhiều thành phần trong xã hội. Từ vua,
quan, quý tộc, thức giả, tỷ phú đến giới thương gia, nông gia, nô lệ,
tướng cướp, kỹ nữ, cho đến ngoại đạo, tất cả đều được Ngài thâu nhận làm
đệ tử tu hành thanh tịnh trong hội chúng của Ngài. Sự tổng hợp đa thành
phần trong xã hội hỗn tạp thành đoàn thể hòa hợp thanh tịnh là điều kỳ
diệu, nếu không phải Thế Tôn sẽ không thực hiện được điều này. Kết quả
kỳ diệu này là do đức chiêu cảm của bậc giác ngộ, nhưng phần lớn nhờ vào
những lời dạy nhiệm mầu cùng với những phương thức giáo hóa vi diệu của
Thế Tôn. Trong phần này, ta không lật lại những trang giáo lý, mà chỉ
tìm hiểu những thánh hạnh, thánh cách và một vài con đường hoằng pháp
của Ngài.
1. Sau khi hành đạo, Thế Tôn nghĩ ngay đến việc giác ngộ cho hai vị
đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Tuy không phải là hai vị thầy
đối thượng, hai vị này là những vị thầy đầu tiên hướng dẫn Thế Tôn tu
tập mà Ngài đã đạt được những quả vị nhất định. Không độ được vì họ đã
qua đời, nhưng lòng tưởng nhớ của Thế Tôn vẫn gợi lên trong ta tinh thần
đại nghĩa của Ngài. Sau đó, Ngài nghĩ ngay đến năm anh em Kondanna và
khởi hành đến Baranasi, cảm hóa họ thành những đệ tử đầu tiên. Ngài cũng
không quên cảm hóa những thân chủ năm xưa: Sujata - cô thôn nữ cúng
Ngài bát sữa, đánh dấu sự từ bỏ khổ hạnh vô nghĩa; Svastika - cậu thiếu
niên cúng 8 bó cỏ mịn để lót ngồi thiền mà sau đó Ngài chứng Vô thượng
Chánh đẳng giác. Hình ảnh bậc Đạo Sư nhớ đến những vị thầy đã theo học
lúc chưa thành đạo, những người bạn đồng tu, những thân chủ năm xưa, cho
ta một cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng vào tình người của Ngài.
2. Tín - một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực giữa con
người với con người. Đức Phật, dù đối với vua chúa, quý tộc hay thứ dân,
đều trân trọng chữ tín. Vua Bimbisara, lúc Thế Tôn chưa thành đạo, có
đề nghị nếu tìm được đạo thì hãy nhớ hóa độ vua; vì vua vừa muốn có bậc
Đạo Sư nương tựa tinh thần, vừa muốn giao hảo với Thế Tôn để cho xứ
Magadha có mối quan hệ tốt với Kapilavatthu. Đồng thời, nếu Thế Tôn trở
thành bậc Thầy vĩ đại thì vua Bimbisara sẽ ảnh hưởng được Ngài về mặt
quần chúng. Đức Thế Tôn thừa hiểu việc này, vẫn giữ lời hứa năm nào, đến
Magadha cảm hóa vua Bimbisara, cuối cùng vua đã trở thành vị đệ tử
nhiệt thành.
Một lần khác, trong lúc đang ở Vesali, Đức Phật nhận lời mời của kỹ nữ
Ambapàli đến thọ thực tại nhà cô ta vào ngày hôm sau. Cùng lúc ấy, nhóm
quý tộc Licchavi cũng thỉnh Ngài thọ thực tại nhà của họ, đúng vào ngày
Ambapàli mời. Đức Phật từ chối trong sự thật rằng, Ngài đã nhận lời mời
của Ambapàli trước rồi nên phải giữ chữ tín (Trường Bộ I, kinh số 15,
tr. 579).
Khi ở tuổi 80, sắp vào Niết bàn, Đức Phật giảng bài pháp về 4 thần túc
của bậc giác ngộ, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Tôn giả A Nan nghe
nhưng không thỉnh Thế Tôn trụ thân ở đời một thời gian trong khi ác ma
thỉnh Ngài nên sớm vào Niết bàn. Đến khi Thế Tôn sắp nhập diệt, A Nan
khẩn nài Ngài trụ thêm một thời gian, Ngài đã từ chối vì đã "hứa" với ác
ma.
3. Không ít người đã dùng lăng kính "nhân giới" để tìm chữ hiếu trong
"Phật giới" nên đã không tìm thấy, rồi vội kết luận Đức Phật bỏ gia
đình, trốn cha mẹ xuất gia là bất hiếu. Cái hiếu của bậc hiền trí không
phải là "quạt nồng ấp lạnh" hay "sửa gối dâng trà", mà là cảm hóa phụ
mẫu về với chánh đạo. Muốn vậy, phải tu theo chánh đạo và đạt được chánh
đạo. Tinh thần hiếu của Đức Phật là cái đại hiếu của người đi phương xa
để tìm "món thuốc" trường sinh bất tử về để cứu cha mẹ, mà không chịu ở
quanh cha mẹ lo bát cơm, tách nước. Do đó, ta thấy sau khi thành đạo và
đã có được một số đông đệ tử, Đức Phật trở về quê hương Kapilavatthu để
hóa độ thân phụ và các thân tộc họ Thích-ca (Sakya). Kinh còn kể, Đức
Phật vận thần thông lên cõi trời Đâu suất để giáo hóa thân mẫu Maya
chứng quả A La Hán.
Như thế, rõ rằng Đức Phật là bậc đại hiếu. Lòng hiếu của Ngài thoát
khỏi chữ hiếu thường tình, không nhuốm màu ái dục. Đó là tinh thần hiếu
đạo xuất thế của bậc giác ngộ.
III. Một vài đặc tính hoằng pháp của Đức Phật
Với trí tuệ siêu phàm , Đức Phật đã hóa độ vô số thành phần trong xã
hội với vô số phương thức khác nhau. Những phương thức này tùy vào bối
cảnh, đối tượng mà Ngài tùy cơ giáo hóa. Ngài không bao giờ đặt ra những
bài học hay công thức cho việc truyền pháp. Ở đây có thể rút ra một vài
phương thức được tìm thấy trong cuộc đời hoằng pháp của Ngài.
1. Tính nhất quán: Nước trong bốn bể vô lượng, nhưng chỉ có một vị duy
nhất - vị mặn. Cũng vậy, giáo lý của Đức Phật nhiều vô số, nhưng chỉ có
một vị duy nhất - vị giải thoát. Bốn mươi lăm năm truyền đạo của Ngài
là 45 năm khai mở đạo mạch giải thoát để tưới nhuần cho muôn loài, giải
thoát khỏi tham, sân, si; giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu,
bi, khổ, ưu não. Dưới cặp mắt của bậc Đại Giác, thế giới này là vô
thường, cuộc sống này là vui ít khổ nhiều, con người này là vô ngã. Đây
là ba dấu ấn để thẩm định lời dạy của Đức Phật. Một bản kinh, một bài kệ
thiếu những dấu ấn này được xem là không phải lời Phật thuyết. Những ai
chấp nhận rằng thế giới này là thường còn, cuộc sống này là hạnh phúc,
con người này là thật ngã, thì không bao giờ đặt được chân lên bờ giải
thoát. Cho nên, dù kinh điển có nhiều, pháp môn tu có nhiều, nhưng chỉ
có một mục đích duy nhất là đưa ta đến sự giải thoát tối thượng.
2. Tính ảnh dụ thực tiễn: Có lẽ đây là phương thức phổ biến nhất trên
đường hoằng pháp của Đức Phật. Hầu như các bộ kinh Đức Phật thuyết đều
ít nhiều mang đặc tính này. Cho đến ngay cả các tên kinh đều là biểu
hiện của tính ảnh dụ, chẳng hạn như: kinh Ví dụ tấm vải, kinh Mật hoàn,
kinh Gò mối, kinh Ví dụ cái cưa, kinh Dụ dấu chân voi, kinh Ví dụ lõi
cây... Những bộ kinh này, Ngài đưa ra những ảnh dụ thực tiễn, cụ thể để
làm sáng tỏ lời dạy của Ngài. Chẳng hạn như kinh Ví dụ con rắn, số 22
trong Trung Bộ I, Ngài dạy các dục ví như đầu rắn; người học giáo lý áp
dụng cho việc tu hành mà không nắm được những pháp môn căn bản, cũng như
bắt rắn mà không biết cách bắt sẽ bị rắn cắn.
3. Tính bất biến-tùy duyên: Tính bất biến-tùy duyên dạy ta có thể uyển
chuyển trong mọi tình huống để làm việc đạo, nhưng không đánh mất tính
chất thật của mình. Nhờ phương thức này mà giáo lý của Đức Phật dễ dàng
có mặt ở mọi nơi, mọi chốn, mọi hoàn cảnh, đi đến đâu cũng dễ thích
nghi, phù hợp với nơi đó. Đức Phật, với tinh thần này, rất linh hoạt
trong mọi hoàn cảnh để thực hiện việc truyền bá chánh pháp. Nhờ vào tinh
thần này mà Phật giáo mang nhiều màu, nhiều vẻ nhưng không đánh mất
chất Phật - bản thể của đạo. Phật giáo Việt Nam không giống Phật giáo
Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa không giống Phật giáo Thái Lan (tùy
duyên), nhưng tất cả các hình thức Phật giáo đều thể hiện tinh thần từ
bi, bình đẳng, giải thoát của Đức Thích Ca (bất biến).
4. Tính khế lý-khế cơ: Đây là một trong những yếu tố quan trọng mà Đức
Phật ứng dụng trong việc hoằng pháp độ sinh. Tính khế lý dạy ta phải
nắm vững chân lý, quy luật vận hành của thế giới nhân sinh. Tính khế cơ
dạy ta phải biết áp dụng chân lý sống đúng thời, đúng lúc, đúng đối
tượng; đặc biệt hiểu được căn cơ, trình độ và tư tưởng của đối tượng để
theo đó sử dụng những "khế cơ" trình độ và tư tưởng của đối tượng để
theo đó sử dụng những "khế cơ" thích hợp áp dụng cho đối tượng. Tính khế
lý-khế cơ khi mới khảo sát, nó gần giống với tính bất biến-tùy duyên,
nhưng nghiên cứu kỹ thì hai phương thức này khác nhau. Tính tùy
duyên-bất biến dùng để áp dụng trong bối cảnh không gian-thời gian;
trong khi đó, tính khế lý-khế cơ dùng ứng dụng cho đối tượng là con
người. Cũng là giáo lý vô thường (bất biến), nhưng có lúc Đức Phật xem
nó như một dòng chảy, có khi Ngài nhìn nó như sự bốc cháy (tùy duyên).
Vô thường là chân lý tồn tại khách quan trong cuộc sống (khế lý), Đức
Phật xét thấy cơ bản, trình độ của 3 anh em ông Uruvela Kassapa - những
Bà La Môn thờ lửa - có thể thích hợp với giáo lý này, Ngài đã thuyết
giảng cho họ một bài pháp rất vô thường, rất tâm lý (khế cơ): tất cả đều
đang bốc cháy, đang thiêu hủy. Sau bài pháp này, 3 anh em Kassapa và
1.000 đệ tử của họ đều quy y Phật. Như vậy áp dụng tính khế lý-khế cơ
đòi hỏi hành giả phải có tuệ nhãn sâu sắc hơn để tùy đối tượng trí, ngu
mà ứng dụng giáo lý cao thấp để hóa độ.
C. Kết luận
Đức Phật, một con người hùng vĩ xuất hiện trong thế giới thường nhân,
với trí tuệ siêu xuất thể hiện qua ngôn ngữ, văn tự thường tình đã gây
âm vang chấn động trong lịch sử tôn giáo và triết học.
Gần ba thiên niên kỷ trôi qua, tiến trình phát triển của con người đã
bao lần thay da đổi thịt, vô số bài diễn văn được chép vào trang đại sử;
trong đó, cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật là bức thông điệp muôn thuở
cho con người khảo nghiệm, nghiên cứu, thực hành. Đức Phật chỉ là một
con người, nhưng là con người kết tinh của vô vàn tinh hoa tuyệt mỹ của
nhân loại. Vì thế, đứng ở góc độ nào, người ta vẫn thấy được hiện thân
của Ngài. Đó là hiện thân của chân lý, của trí tuệ và từ bi. Thật vậy,
không phải thấy được xác thân bốn đại của hơn 2.000 năm trước mới gọi là
thấy Phật. Ngài dạy, những ai thấy được lý Duyên khởi -- luật vận hành
của nhân sinh-vũ trụ -- người ấy thấy được Pháp; những ai thấy được
Pháp, người ấy thấy được Như Lai (Trung Bộ I, kinh số 28).
Vâng, tất cả nhân loại đang tìm về chân lý, hướng về chân lý, đang mơ ước được diện kiến Như Lai....