;
Chùa ở Việt Nam không chỉ là chỗ tôn nghiêm thờ phượng để bổn đạo đến lễ Phật mà còn là nơi tụ họp của dân chúng vào những dịp lễ như hành hương, rước đảo vũ, chay đàn, đổ giàn..., thậm chí cả những cuộc vui chơi như bài chòi, hát bội cũng có khi tổ chức tại sân chùa. Dân chúng đến đình làng phải khép nép vì sợ có sự phân biệt rõ ràng giữa thứ dân với hào mục, ngay cả trong hàng quan lại về làng cũng phân biệt nhau theo học vị và phẩm trật. Lệ làng, kẻ có chức tước bao giờ cũng được ăn trên ngồi trốc. Trái lại, cửa thiền luôn luôn rộng mở, chúng sinh được bình đẳng an vui, vì vậy chùa chiền rất gần gũi với dân chúng.
Qua ca dao, dân làng bày tỏ tình cảm quyến luyến với chùa chiền:
Dù ai buôn đâu bán đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
và cảm thấy mất mát khi xa cách:
Vì ai nên nỗi sầu này
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau.
Ngôi chùa xưa nhất và cũng là ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam có từ thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch (thời Sĩ Nhiếp) là chùa Dâu. Chùa được dựng gần nha môn Sĩ Vương, nơi có thành Luy Lâu là thủ phủ của xứ Giao Chỉ (đời Đông Hán) sau đổi là Giao Châu (đời Tam Quốc). Nay chùa thuộc làng Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng 30 km.
Chùa Dâu tên chữ là Thiền Định tự (thời Lý Trần) hay Diên Ứng và Pháp Vân, vì trong chùa có thờ tượng bà Pháp Vân, vị thần nổi tiếng cầu mưa rất linh ứng, là một trong Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Tuy chùa có nhiều tên chữ, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên nôm là chùa Dâu. Có sách cho rằng đó là do tượng bà Man Nương, người sáng lập ngôi chùa này, được tạc bằng gỗ dâu. Sách khác viết rằng vì trước mặt chùa có sông Dâu cũng như tọa lạc trên làng Dâu nên tên chùa được gọi theo đấy.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư (1) và các tài liệu khác, chùa Dâu được xây cất lại và được trùng tu nhiều lần. Năm Tân Tị (1161) đời Lý Anh Tông (1138-1175), chùa Dâu được xây cất lại. Đến cuối thế kỷ 13, Mạc Đỉnh Chi (1280-1350) sửa sang và dựng tháp 9 tầng, xây cầu 9 nhịp. Tháp cao đến nỗi: “Dù ai buôn đâu bán đâu, hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về”. Ngày nay, tháp chỉ còn có 3 tầng, nhờ tấm bia bằng đá xanh dựng nơi chân tháp, người ta mới biết được tháp này có tên là Hòa Phong, tái thiết vào năm Mậu Ngọ (1738) đời Lê Ý Tông (1735-1740) do Thiền sư Tính Mộ và đệ tử xây dựng trên nền tháp cũ đã đổ nát và chùa cũng được sửa chữa vào dịp này. Đến năm 1917, chùa được trùng tu một lần nữa.
Hằng năm, hội Dâu mở vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Lễ hội có những đám rước rất lớn, cờ lọng rợp trời, kèn chiêng trống tưng bừng. Theo Chùa xưa tích cũ của Nguyễn Bá Lăng, dân chúng 11 xã trong tổng Khương Tự tham gia lễ hội từ mồng 8 đến mồng 10. Đầu tiên là đám rước Sĩ Nhiếp cùng vương nữ là Ngọc Tiên công chúa đến chùa Dâu làm lễ, xong rước về bản đền ở làng Lũng Khê. Cũng trong ngày mồng 8, ba đám rước cùng lúc các tượng Pháp Vũ ở chùa Thành Đạo làng Đông Cốc, tượng Pháp Lôi ở chùa Phi Tương làng Thanh Tương, và tượng Pháp Diện ở chùa Trí Quả làng Phương Quan đến chùa Dâu, hội cùng với tượng Pháp Vân. Sau đó rước cả 4 vị đến chùa Mãn Xá bên kia sông Dâu, làm lễ kính yết bà Man Nương. Xong, rước 4 tượng về lại chùa Dâu nghỉ đêm. Sáng mồng 9, lại rước Tứ Pháp đến đền Sĩ Nhiếp làm lễ, sau đó rước đi trình diễn khắp tổng, chiều tối lại rước về nghỉ ở chùa Dâu. Ngày mồng 10, rước 3 tượng Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện trở về chùa riêng của mỗi vị.
Bắc Ninh không những có trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo đầu tiên của Trung Hoa là Bình Thành và Lạc Dương (kinh đô nhà Hán, bên sông Hoàng Hà), Bắc Ninh còn là nơi được xây nhiều chùa chiền dưới thời Lý. Theo Đại Nam nhất thống chí (2) và các tài liệu khác thì ở tổng Lãm Sơn có 16 xã nằm quanh khu núi đồi, cảnh trí sông núi âm u tịch mịch nên có nhiều chùa cổ. Nơi sườn núi phía nam thuộc xã Nam Sơn có chùa Đại Lãm, tục gọi là chùa Dạm. Năm 1086, Lý Nhân Tông cho dựng chùa. Năm sau (Quang Hựu thứ 3), nhà vua ngự giá khánh thành. Vua mở tiệc đêm tại chùa, đãi yến các quan và chính nhà vua làm 2 bài thơ Lãm Sơn dạ yến. Năm Long Phù thứ 5 (1105), Nhân Tông còn dựng 3 tháp bằng đá tại chùa này. Chùa đã đổ nát từ lâu, nay chỉ còn lại vết tích 4 lớp nền xẻ vào sườn núi với vài dấu vết nền đá và một cây cột đá lớn dựng ở lối lên bên phải của bậc nền thứ hai, chứng tỏ chùa được xây trên một diện tích bề dài khoảng 120 mét, bề rộng 70 mét.
Lúc về già, Thái phi Ỷ Lan (thân mẫu vua Nhân Tông) đến ở chùa Dạm. Bà cho lập chợ ở chân núi trước chùa và cho đào một con ngòi thẳng ra sông Thiên Đức, gọi là ngòi Con Tên, để vua tiện việc ngự thuyền rồng vào thăm mẹ, nay vẫn còn lưu lại qua ca dao:
Trên chùa dưới chợ
Hàng phố hai bên
Núi Rồng ở trên
Ngòi Tên ở dưới.
Bắc Ninh còn có chùa Sùng Khánh, tức chùa Báo Thiên, ở Đông Xuyên thuộc tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn. Chùa được xây cất năm Bính Thân (1056) niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 3. Vua Lý Thánh Tông còn xuất 12 ngàn cân đồng của công khố để đúc chuông cho chùa. Nơi đây có tiếng là danh lam thắng cảnh qua ca dao truyền tụng:
Đông Xuyên có bãi sân chầu
Có chùa Sùng Khánh, có lầu Bạch Vân.
Nếu lấy Thăng Long làm tâm điểm, thì đối xứng với Bắc Ninh là tỉnh Sơn Tây. Nếu Bắc Ninh có trung tâm Phật giáo Luy Lâu cổ xưa nhất thì Sơn Tây có chùa Tây Phương là danh lam cổ tự nổi tiếng nhất của Việt Nam. Chùa có tên chữ là Sùng Phước tự, nằm trên đỉnh núi Tây Phương (cao chừng 50 mét), hình núi cong như lưỡi câu nên còn gọi là núi Câu Lâu, nay thuộc làng Cần Kiệm xã Thạch Xá huyện Thạch Thất.
Về niên đại của chùa, sách Danh lam cổ tự đã vin vào bảng lịch sử của chùa mà cho rằng chùa có từ thế kỷ thứ 3. Có lẽ tác giả dựa vào lời tương truyền đời Tấn (265-420) có Cát Hồng đến núi Câu Lậu luyện thuốc tu tiên. Còn theo sách Chùa xưa tích cũ, tác giả căn cứ vào số lượng tượng Hộ Pháp và La Hán: chùa chỉ có 1 Hộ Pháp là Vi Thiên Tướng thay vì 2 vị, và chỉ có 16 tượng La Hán chứ không phải 18 vị như thời Tống nên cho rằng chùa phải được lập thành trong thời Đường (618-936), hay chậm nhất cũng phải trước thời Tống (năm 960 về trước). Dù chùa dựng vào thời nào cũng trên 1000 năm rồi và phải trùng tu nhiều lần. Sử sách có ghi hai lần trùng tu ở cấp quốc gia là năm 1632 đời Lê Thần Tông và năm 1794 đời vua Cảnh Thịnh.nguoiphattu.com
Ngày hội chùa được nhắc nhở qua ca dao:
Ấy ngày mùng sáu tháng ba
Ăn cơm với cà, đi hội chùa Tây.
Nhịn ăn nhịn mặc (ăn cơm với cà) để dành tiền đi xem hội chùa Tây một lần kẻo tiếc. Dự hội chùa vừa được hưởng một ngày vui, vừa được chiêm ngưỡng kiến trúc và điêu khắc tuyệt vời của ngôi cổ tự.
Chùa dựng theo hình chữ tam rất độc đáo. Cả ba dãy nhà đều thiết kế kiểu mái hai tầng, ở bốn góc chái đều có mái đao cong vút lên nền trời trông rất mạnh, lại có đắp rồng ngắn ở đầu góc, tạo nét uyển chuyển hài hòa. Về nghệ thuật điêu khắc, chùa có tất cả 77 pho tượng lớn nhỏ bằng gỗ mít, son thếp nhiều màu rất công phu. Đáng kể nhất là tượng Tuyết Sơn, nét nhẫn nại trầm tư nhưng cương quyết hiện rõ trên khuôn mặt gầy gò của người tu khổ hạnh. Các tượng La Hán lớn bằng người thật, mỗi vị mang một dáng điệu, một nét mặt, biểu lộ trạng thái tâm tư khác nhau.
Xong hội chùa Tây, ngày hôm sau có hội chùa Thầy ở huyện kế cận. Chùa Thầy trong khu vực núi Sài Sơn, thuộc làng Hoàng Xá xã Phượng Cách huyện Quốc Oai. Chùa có tên chữ là Thiên Phúc tự, xây năm 1057 đời Lý Thánh Tông, nguyên là một chùa nhỏ do Thiền sư Từ Đạo Hạnh lập ra để tu hành, dân chúng gọi là chùa Thầy để tỏ lòng tôn kính.
Chẳng vui cũng thể hội Thầy
Chẳng trong cũng thể hồ Tây xứ Đoài.
Rửa chân đi hán đi hài,
Rửa chân đi đất cũng hoài rửa chân.
Nói thế chứ hội chùa Thầy vui lắm. Không những phong cảnh hữu tình, trước chùa là một hồ nước rộng có thủy đình trình diễn múa rối nước, mà nơi đây còn là điểm hẹn của nam thanh nữ tú:
Mồng bảy tháng ba
Vui thay Cắc Cớ
Trai không vợ
Nhớ hội chùa Thầy
Gái không chồng
Nhớ ngày mà đi
Hai bên chùa là hai cây cầu có mái che mưa nắng do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602, đặt tên là Nhật Tiên và Nguyệt Tiên. Lối qua cầu Nguyệt Tiên có đường dẫn lên núi vào hang Cắc Cớ. Đường đi ngoằn ngoèo nhỏ hẹp lại men theo sườn núi, một bên là vách đá, một bên là vực sâu, người ra vào dễ đụng chạm vào nhau hoặc phải nhờ dìu dắt, nhân đó trai gái có dịp làm quen:
Mưa từ trong núi mưa ra
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua chùa Thầy.
Đôi ta bắt gặp nhau đây,
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.
Và có nhiều cuộc hôn nhân bắt nguồn từ hội chùa Thầy, trên đường vào hang Cắc Cớ:
Một nhà có bốn chị em
Có tôi là út, tôi thèm đi chơi.
Cả gan may túi đựng trời
Đem nong sảy đá, giết voi xem giò
Ngồi buồn đem thước ra đo
Đo từ núi Sở, núi So, chùa Thầy.
Lên trời đo gió đo mây
Xuống sông đo nước, lại đây đo người.
Đo từ mười tám, đôi mươi
Đo lên chẳng được, đo người mười lăm.
Tuổi em vừa đúng trăng rằm
Tuổi anh mười sáu kết trăm năm vừa.
Lại có người cho rằng hội chùa Ngo ở xã Tích Giang huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây mới đúng là nơi hấp dẫn:
Nhất vui là hội chùa Thầy
Vui thì vui vậy, chẳng tày hội Ngo
Chùa Ngo khánh đá chuông đồng,
Muốn chơi thì trả của chồng mà chơi!
Cùng huyện với chùa Ngo, ở xã Đường Lâm có chùa Viễn là ngôi chùa cổ với bảo vật nổi tiếng:
Nước giếng đồng chưa hâm đã nóng
Chuông chùa Viễn chưa gióng đã kêu!
Nhưng chùa chứa nhiều bảo vật đứng hàng thứ nhì (sau chùa Tây Phương) của tỉnh Sơn Tây nói riêng và cả nước nói chung, phải kể là chùa Sùng Nghiêm ở làng Mía, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì. Chùa hiện có 287 pho tượng lớn nhỏ bằng gỗ hoặc bằng đất luyện, sơn son thếp vàng công phu. Ba pho tượng có giá trị cao về nghệ thuật là tượng Quan Âm Tống Tử với đường nét sinh động mềm mại; tượng Bát Bộ Kim Cang bằng đất luyện, 8 hình tượng diễn tả 8 thế võ khác nhau, nét mặt biểu lộ tinh thần thượng võ; tượng Tuyết Sơn cũng rất đạt về nghệ thuật nên có ca dao ca truyền tụng:
Nổi danh chùa Mía làng ta
Có pho Tống Tử Phật Bà Quan Âm.
Đất Sơn Tây còn lắm chùa, nhiều di tích. Nhưng ta hãy tạm rời, theo đoàn người trẩy hội về Thăng Long cho kịp ngày mồng 8 tháng 3, dự hội chùa Chiêu Thiền ở làng Yên Lãng, tên nôm là chùa Láng, thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, cách trung tâm Hà Nội khoảng 6 km về hướng tây. Chùa khởi dựng năm 1164 đời Lý Anh Tông, được trùng tu nhiều lần, lần gần nhất là giữa thế kỷ 19. Chùa có một quần thể kiến trúc hài hòa. Bước vào cổng có 4 trụ lớn bằng gạch vươn cao lên nền trời, đỡ 3 cổng vào với mái cong thanh thoát. Tiếp đến là sân rộng lát gạch bát tràng, cuối sân có cổng tam quan, xuyên qua là nhà bát giác, nơi đặt tượng Lý Thần Tông và Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Vì chùa có phụ thờ đức Từ Đạo Hạnh nên mở hội tiếp theo hội chùa Thầy:
Nhớ ngày mồng tám tháng ba
Trở về hội Láng, trở qua hội Thầy.
Hà Nội có một ngôi chùa đẹp nổi tiếng nhưng yểu mệnh. Đó là chùa Liên Trì, còn gọi là Báo Ân Tự, nằm bên hồ Hoàn Kiếm, dựng năm Mậu Thân (1848) Tự Đức nguyên niên, kiến trúc theo hình bát giác, có 36 tòa nhà, gồm 188 gian. Là một công trình vĩ đại của thế kỷ 19, do Thượng thư Nguyễn Văn Giai, người Thanh Hóa, xây dựng nên dân chúng quen gọi là chùa Quan Thượng:
Gần xa nô nức tưng bừng
Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên.
Lầu chuông, gác trống đôi bên
Trông ra chợ Mới, Tràng tiền kinh đô.
Khen ai khéo vẽ họa đồ,
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ Hoàn Gươm.
Nhưng đến năm 1887, niên hiệu Thành Thái thứ 9, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer lập chế độ trực trị tại Bắc kỳ, đã triệt hạ chùa Quan Thượng, lấy đất xây tòa Thống sứ và Bưu điện Hà Nội.
Phía nam Hà Nội là giáp Hà Đông, một tỉnh có nhiều cổ tự nổi tiếng như chùa Hương, chùa Trăm Gian. Hội chùa Hương vào ngày 19 tháng 2 là ngày giáng đản và ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày thành đạo của đức Quan Âm chùa Hương, nhưng người đi trẩy hội thường chọn dịp tháng 2. Du khách đến chùa Hương bằng nhiều ngả. Đi đường bộ thì theo liên tỉnh lộ 22. Đường thủy thì từ Phủ Lý (Hà Nam) đi ngược sông Đáy, hoặc từ bến Vân Đình (Hà Đông) xuôi dòng sông Đáy. Dù đường bộ hay thủy, cũng đổ bến tại Hà Đoan, quen gọi là bến Đục. Nơi đây quán trọ, hàng ăn san sát. Các gian hàng bán sản phẩm địa phương nổi tiếng như rau sắng, quả mơ, hồng trà, củ mài... với các cô gái bán hàng xinh xắn, liến thoắng mời khách.
Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn thương chăng?
Từ bến Đục đến bến đò Suối chừng nửa cây số. Tại bến đò, du khách thuê đò đi chừng 2 cây số thì đến bến Trò. Bước lên bờ, thấy ngay tam quan của chùa Thiên Trù, quen gọi là chùa Ngoài. Đi bộ thêm khoảng vài giờ đường núi, gặp ba chùa nữa là chùa Tiên, chùa suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, rồi leo lên gần đến đỉnh một trái núi, mới tới động Hương Tích. Đây là chùa Trong, còn gọi là chùa Hang. Đường núi gập ghềnh, chim kêu vượn hót, du khách tốp năm tốp bảy ra vào tấp nập. Họ có thể không biết nhau, nhưng gặp nhau vẫn tươi cười với câu chào “A Di Đà Phật”, “Nam mô Phật” hay “Quan Thế Âm Bồ Tát”:nguoiphattu.com
Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa Hương.
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.
Trong động, trên dải thạch nhũ có khắc 5 chữ đại tự “Nam thiên đệ nhất động” đẹp sắc sảo, tương truyền là nét bút của chúa Trịnh Sâm (1767-1782), nhưng có sách lại cho là của vua Lê Thánh Tông.
Chùa nào mà lại có hang?
Ở đâu lắm của thời chàng biết không?
Chùa Hương mà lại có hang
Trên rừng lắm của thời nàng biết không.
Phía Bắc tỉnh Hà Đông, gần đường liên tỉnh 11, tại làng Tiên Lữ xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao chừng 50 mét có một ngôi chùa nổi tiếng về phong cảnh đẹp, kiến trúc qui mô, có nhiều bảo vật và tượng quý. Đó là chùa Trăm Gian, theo làng sở tại còn có tên là chùa So hay chùa Tiên Lữ, tên chữ là Quảng Nghiêm tự. Theo Danh lam cổ tự, chùa được lập năm Ất Tị (1185) niên hiệu Trinh Phù thứ 10 đời Lý Cao Tông, nhưng theo Nguyễn Bá Lăng trong Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì chùa do Minh Đức chân nhân Nguyễn Bình An lập từ thế kỷ 13 triều Trần và được trùng tu khoảng thế kỷ 17, 18. Chùa có 4 dãy nhà kết thành bình đồ chữ nhật rộng 24 mét, dài 42 mét. Nếu tính 4 cột là 1 gian thì chùa có 104 gian, tính cả phần phụ thuộc nối dài sau chùa thì cả thảy 107 gian, vì thế nên có câu ca dao truyền tụng:
Đình So, quán Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian
Nếu theo quốc lộ 5 đi Hưng Yên, cách Hà Nội chừng 20 km về phía đông nam, tại làng Ôn Xá huyện Văn Lâm có chùa Un với hội rước Tứ Pháp cầu đảo vũ. Hội tổ chức qui mô lớn, cả tổng tham dự nên còn gọi hội tổng Ôn Xá. Lễ hội không mở định kỳ hàng năm, chỉ khi nào hạn hán trầm trọng mới mở hội. Theo tục lệ, dân địa phương rất sợ uy linh của Pháp Điện nên không ai dám xê dịch tượng ngài, người ta chỉ mở đám rước các tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi thờ ở các chùa khác về chùa Un để cùng với Pháp Điện linh ứng lễ hợp tế cầu mưa nên có câu:
Ba bà trẩy hội chùa Un
Mưa gió đùng đùng mới dễ làm ăn!
Rời Hưng Yên, cũng theo quốc lộ 5 đi qua tỉnh lỵ Hải Dương rồi rẽ trái vào tỉnh lộ 17 đến thị trấn Phả Lại thuộc huyện Chí Linh, gần chỗ hợp lưu của sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam làm thành sông Thái Bình. Tại chân núi Phao Sơn, có chùa Phả Lại vươn cao, soi mình trên sông nước. Sơn thủy hữu tình đã tô điểm cho cảnh chùa vẻ đẹp mơ màng, đi vào ca dao muôn thuở:
Xa đưa văng vẳng tiếng chuông
Kìa chùa Phả Lại chập chùng bên sông.
Ở tận cùng miền biên giới Việt Hoa là tỉnh Lạng Sơn, nổi tiếng về sơn thủy hữu tình. Sông Kỳ Cùng chảy dọc theo chiều dài của tỉnh, chia thị xã Lạng Sơn làm hai phần, phía nam là khu lỵ sở và phố xá, phía bắc có chợ Kỳ Lừa lập từ đời Lê Thái Tông (1434-1442), xưa nay nổi tiếng sầm uất. Cách chợ Kỳ Lừa chừng 2 km (đường chim bay) về phía tây có dãy núi đá vôi, trong núi là một hệ thống hang động gồm Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh; trên sườn núi Tô Thị có tượng đá Vọng Phu nhô cao lên nền trời dáng người đàn bà ôm con chờ chồng, một tuyệt tác thiên nhiên có từ ngàn xưa (3).
Từ lỵ sở Lạng Sơn đến chợ Kỳ Lừa, qua cầu Kỳ Cùng rẽ trái vào phố Muối là đường lên hang động. Đầu tiên gặp động Nhất Thanh thờ Phật và có thờ tượng Ngô Thì Sĩ (cựu Đốc trấn Lạng Sơn). Động Nhị Thanh khá rộng, trần và vách đầy nhũ đá, có ngôi chùa Tam giáo thờ đức Khổng Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca. Xuyên qua động Nhị Thanh, men theo con đường suối trong hang dẫn tới động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Đường hang dài, chỗ phình ra trên trần có lỗ “cổng trời” rọi nắng phản chiếu vào nhũ đá lên màu rực rỡ. Trong động Tam Thanh trần cao đến 8 mét, nền rộng và phẳng, có chùa thờ nhiều tượng Phật, có cửa thông ra ngoài cả hai hướng đông và tây, lại có dòng suối nhỏ róc rách chảy vào “ao địa ngục” âm u lạnh lẽo. Trên vách khắc bài thơ tuyệt tác của Ngô Thì Sĩ, nét chữ đẹp và phóng khoáng như rồng bay. Tất cả tạo nên khung cảnh vừa lộng lẫy, vừa thơ mộng, huyền ảo xứng đáng nổi danh qua câu ca dao:
Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh (4).
Vùng đồi núi giáp giới ba tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Yên có ngọn núi Yên Tử cao nhất vùng. Vào thời Trần, Yên Tử là một trung tâm Phật giáo khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, lên đây tu hành, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm là thiền phái thứ ba trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Từ chân núi đến ngôi chùa Cả nằm chót vót trên ngọn - còn gọi là chùa Yên Tử - đường dài 30 km. Dọc đường có hơn 20 cảnh chùa gắn liền với địa danh, mang sự tích Thượng hoàng Nhân Tông xuất gia. Đầu tiên là suối Tắm, nơi Thượng hoàng dừng lại tắm gội bụi trần trước khi lên núi tu hành. Bên suối Tắm có chùa Cầm Thực (nhịn ăn), tương truyền khi Thượng hoàng đến đây chỉ ăn rau quả thay cơm. Đi nữa, gặp chùa Long Động, tục gọi là chùa Lân vì chùa dựng sát núi giống hình con lân, nơi Thượng hoàng mở trường thuyết pháp, độ tăng cho cả vạn người. Đường còn dài, phải vượt qua chín con suối nữa thì gặp dốc Voi Xô, rồi núi Hạ Kiệu, đánh dấu nơi vua Trần Anh Tông mỗi lần lên thăm cha phải xuống kiệu đi bộ từ quãng này. Đường lên Yên Tử khó khăn và thử thách nên mới có câu:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Từ Hải Phòng theo liên tỉnh lộ 10 đi về hướng Nam Định, khi ra khỏi tỉnh lỵ Thái Bình thì gặp huyện Vũ Tiên. Nơi làng Dũng Nghĩa, nay là Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thử có ngôi chùa cổ nổi tiếng. Đó là chùa Keo (gọi theo tên làng), tên chữ là Thần Quang tự, do Quốc sư Không Lộ lập từ thời Lý Thần Tông (1128-1138). Chùa nằm sát tả ngạn sông Hồng nên bị xói lở, năm 1609 chùa được dời đến địa điểm ngày nay, tọa lạc trên thửa đất rộng gần 6 mẫu tây. Toàn cảnh chùa là một quần thể kiến trúc gồm 14 công trình. Trên đường trục tim, đầu tiên là cột cờ. Tiếp đến là sân lát đá xanh, dẫn đến tam quan ngoài có 4 góc mái vươn cong. Tiếp nữa, ao chữ nhật dài 25 mét rộng 10 mét chắn ngang, có đường lát đá viền quanh dẫn đến tam quan trong. Bước qua sân đất rộng, tới khu kiến trúc chính của chùa như tiền đường tức chùa Hộ, thượng điện tức chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiêu Hương, tòa Phục Quốc, tòa Hậu Cung. Cuối cùng là gác chuông với 12 góc mái vươn cong, xếp chồng 3 tầng, cao hơn 11 mét. Theo văn bia dựng năm 1630, chùa có tất cả 21 dãy nhà gồm 154 gian, nhưng nay chỉ còn 107 gian, đặc biệt sườn nhà toàn bằng gỗ lim lắp mộng, không dùng đinh.
Chùa Keo hàng năm mở hội từ ngày 13 đến hết đêm rằm tháng 9. Hội chùa rất lớn, không những chỉ dân tỉnh Thái Bình mà còn cả dân các tỉnh lân cận như Kiến An (nay là Hải Phòng), Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định... cũng về dự. Hội trẩy đông đảo, vui không kể xiết, các cô gái đã bày tỏ lòng nao nức dự hội qua phong dao:
Dẫu mà cha đánh, mẹ treo
Cũng không bỏ hội chùa Keo đêm rằm.
Rời Thái Bình, tiếp tục theo liên tỉnh lộ 10 đến tỉnh lỵ Nam Định, rồi theo liên tỉnh lộ 21 về chùa Giao Thủy ở làng Hành Thiện, tổng Hành Thiện, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường nay là huyện Xuân Thủy. Tương truyền ngày xưa Thiền sư Nguyễn Minh Không tu ở đây, tục gọi là chùa Keo Trên để phân biệt với chùa Keo ở Thái Bình. Cả hai chùa đều có tên chữ là Thần Quang tự và đều thờ sư Minh Không tức Quốc sư Không Lộ. Các sách sử xưa có chép việc Lý Thần Tông mắc bệnh hóa hổ, được Thiền sư Minh Không chữa khỏi nên phong làm quốc sư. Sách Thành ngữ Điển tích Danh nhân Từ điển còn cho rằng tiền kiếp của vua Thần Tông chính là Thiền sư Từ Đạo Hạnh, bạn tu hành với các sư Giác Hải, Minh Không, bởi có lời nguyền kiếp trước nên kiếp này nhà vua