;
Chân dung Cố Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác (1937– 2021
Lễ nhập kim quan Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác
NI TRƯỞNG THÍCH NỮ HUỆ GIÁC
- Nguyên Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN nhiệm kỳ VI;
- Nguyên Ủy viên Ban Từ thiện Xã hội Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ VI, VII;
- Nguyên Phó Phân Ban Ni giới Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ V;
- Nguyên Cố vấn Phân Ban Ni giới Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ VI;
- Nguyên Ủy viên Ủy ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ VI, VII;
- Nguyên Phó Ban Trị sự, Trưởng Ban Từ thiện XH GHPGVN tỉnh nhiệm kỳ VI;
- Nguyên Phó Phân Ban Ni giới thuộc Ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai;
- Nguyên Trưởng ban Bảo trợ Trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Nai;
- Tông trưởng Liên tông Tịnh Độ Non Bồng;
- Viện chủ Quan Âm Tu viện – Trụ trì Tổ đình Linh Sơn (tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).
Do niên cao lạp trưởng, Ni trưởng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 07 giờ 00, ngày 21 tháng 01 năm 2021 (nhằm ngày 09 tháng Chạp năm Canh Tý) tại Quan Âm Tu Viện, khu phố 3, phường Bửu Hòa, Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai.
Trụ thế: 84 năm
Hạ lạp: 54 năm
Lễ nhập kim quan chính thức cử hành vào lúc 18giờ00, ngày 21/01/2021 (09/ tháng Chạp/Canh Tý).
Kim quan Ni trưởng được tôn trí tại Quan Âm Tu viện, khu phố 3, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Lễ viếng bắt đầu vào lúc: 07giờ00, ngày 22/01/2021 (10/ tháng Chạp/Canh Tý).
Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 07giờ00, ngày 25/01/2021 (13/tháng Chạp/Canh Tý), sau đó cung thỉnh kim quan về tôn trí tại Tổ đình Linh Sơn, xã Tân Hòa, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Lễ di quan nhập Bảo tháp vào lúc 08giờ00, ngày 28/01/2021 (16/tháng Chạp/Canh Tý) tại Tổ đình Linh Sơn, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Tiểu sử Ni trưởng Thích nữ Huệ Giác
Tông Trưởng Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng (1937 - 2021)
Ni trưởng pháp húy Lệ Cưng, đạo hiệu Thích Nữ Huệ Giác, thế danh Nguyễn Thị Cưng, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 42, là Trưởng tử của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, hiệu Nhựt Ý, thuộc dòng Lâm Tế thứ 41, biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai – Tổ khai sáng môn phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng.
Ni trưởng sinh năm Đinh Sửu, ngày mùng 2 tháng 6, tiết Tiểu thử, Lập thu, (3 tháng 7 năm 1937) tại Ấp Chợ, Làng Tân Ba, Quận Tân Uyên, Tỉnh Biên Hòa, nay là Khu phố Tân Ba, Phường Thái Hòa, Thị xã Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương, trong một gia đình trung lưu gia giáo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Ngưu - một nhà Nho thâm tín Phật pháp, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Bồng - một Phật tử thuần thành, quy y Tam bảo, có pháp danh Lệ Bồng. Song thân của Ni trưởng đều là hiền nhân, chuyên làm việc phước thiện, cứu người.
Ni trưởng là con út trong gia đình có 7 anh chị em. Người anh thứ năm là liệt sĩ Nguyễn Văn Ta hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ni trưởng thuở thiếu thời đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, nhân ái, thường nghe kệ pháp của Ngài Cao Minh Thiền Sư. Cụ Mã Sấm – nguyên hiệu trưởng Trường Tiểu học Tân Ba từng nhận xét: “Đây là người học trò phi thường, có những thiên phú rất đặc biệt, hay xuất kỳ bất ý thuyết giảng đạo lý”. Năm 1955, Ni trưởng quy y với Hòa thượng Trí Châu, húy Hồng Ân, pháp danh Lệ Cưng. Thời nữ sinh áo tím trường Gia Long, Ni trưởng vẫn hay xuất tâm kệ giúp người hướng thiện tu hành khiến quý thầy cô giáo trong trường rất ngưỡng mộ và trân trọng. Sau này bà Trần Thị Tỵ [ Bà Trần Thị Tỵ, bậc thầy lâu năm của trường nữ sinh Gia Long, có thâm niên giữ chức vụ Hiệu trưởng trường Gia Long sau này là Trường PTTH Nguyễn thị Minh Khai 21 năm qua hai giai đoạn: 1965 – 1969 và 1975 – 1992. Bà từ trần ngày 23 tháng 12 Đinh Dậu (8/2/2018) hưởng thọ 89 tuổi trong sự thương tiếc của nhiều thế hệ học trò.] - vị Hiệu trưởng tài đức của Trường Gia Long đã tìm về Quan Âm Tu Viện xin quy y Tam Bảo với Ni Trưởng.
I. XUẤT GIA VÀ HÀNH ĐẠO
Năm 1956, khi Ni trưởng còn đang học trường Gia Long thì cơ duyên Phật pháp đã đến. Trong thời gian hoằng đạo tại Chùa Long Sơn, Tân Ba, Tân Uyên, Đức Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước[ Đức Tôn sư thượng Thiện hạ Phước sau khi đắc pháp với Đức Sư Ông Bửu Đức tại núi Dài, Văn Liên, Châu Đốc, đã về miền Đông hành đạo, đặc biệt là tại Quận Tân Uyên, Tỉnh Biên Hòa, bấy giờ là thủ phủ miền Đông Nam bộ.] đã dạy đạo cho Ni trưởng và ban pháp hiệu Huệ Giác.
Năm 1958, sau thời gian thầm lặng hành đạo trên đất Trấn Biên, Đức Tôn Sư thân hành về Núi Dinh (Bà Rịa). Đang là một nữ sinh Gia Long nhưng đã thấm nhuần hương đạo giải thoát nên Ni trưởng quyết định theo đức Tôn sư xuất gia tầm đạo. Thuở đó, có một số đông nam nữ Phật tử nhân sĩ, trí thức như anh em thầy giáo Mã Sấm, chủ bút nhà báo Chuông Mai, Báo Thần Chung, một số phóng viên nhà báo, sinh viên học sinh ... cùng theo Ni trưởng về núi Dinh bắt đầu một đời sống kham nhẫn tu hành trong thâm sơn cùng cốc mà trong bài thơ Tâm Tu chí đạo của Ni trưởng còn lưu dấu:
Dốc lòng xa lánh chốn phiền ba, Trỗi bước lên non mặc áo dà.
Sớm dạo rừng tòng ngâm Bát Nhã, Tối vào am mọn tụng Liên hoa.
Mỏ chuông vài món nơi bàn thạch, Kinh Kệ đôi câu trước Phật bà
Quyết chí tu hàng cho đắc quả, Nguyện về Cực Lạc thấy Di Đà.
Năm 1957, Đức Tôn sư Thiện Phước sáng lập Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, Tổ đình Linh Sơn bắt đầu được xây dựng. Ngày mùng 9 tháng giêng năm Mậu Tuất (1958), Ni trưởng thế phát xuất gia. Vốn mang chủng tử của người sứ giả Như Lai, tuy trẻ tuổi nhưng Người đã thể hiện những phẩm chất của bậc ni lưu kiệt xuất, chí cả trượng phu, trở thành nguyên khí của tông phong, hướng đạo vào đời làm trang nghiêm thánh cảnh Tịnh Độ nhơn gian tại vùng núi Dinh.
Năm 1965, Ni trưởng thọ giới Sa Di Ni tại đại giới đàn Liên Tông Tự, do Hòa thượng Thích Hồng Ảnh làm Hòa thượng đàn đầu. Sau khi thọ giới Sa Di Ni, với đức độ trang nghiêm, cao thâm trí đạo, vang vọng thanh âm, Người được Trung ương Giáo hội Phật giáo Tịnh Độ Tông cấp giấy phép hành đạo giảng kinh thuyết pháp các miền Trung Nam nước Việt.
Ni trưởng luôn thể hiện phẩm chất người con gái dòng họ Thích, sống đời mô phạm, luôn khép mình trong pháp phục Thiền gia, trọn niềm trung hiếu, chuyên tâm hành Bồ tát hạnh, miệt mài kham nhẫn vun trồng hạt giống bồ đề cho cả giới xuất gia và tại gia. Tổ đình Linh Sơn - Núi Dinh thời đó có hơn 600 vị Tăng Ni chuyên tâm tu tập pháp môn Tịnh Độ, và hàng trăm cư sĩ tại gia vân tập công quả, kệ kinh sớm chiều. Ni trưởng được đức Tôn sư giao trách nhiệm thuyết Kinh giảng pháp cho toàn thể hội chúng. Do đức hạnh oai nghiêm, trí huệ sáng ngời, đặc biệt là bằng các phương tiện thù thắng giáo hóa chúng sanh nên tiếng lành đồn xa, phật tử về tu tập ngày một đông. Nơi Tổ đình Linh Sơn - chốn Tổ thiêng liêng cổ kính, Ni trưởng được Đức Tôn Sư ấn khả là người đệ tử tâm đắc.
Năm 1960, y giáo Đức Tôn sư, Ni trưởng thành lập Cô nhi viện Phước Lộc Thọ trên núi Dinh để nuôi dưỡng bảo bọc hàng trăm cô nhi, người già yếu neo đơn, người cô đơn bất hạnh. Ngày ngày thay nhau gánh gạo lên non, khiêng đá vác gạch xây dựng tổ đình, đời sống đạm bạc gối đá nằm sương vô cùng gian lao khó nhọc, thời khóa công phu tu tập trong thanh quy nghiêm tịnh qua nhiều năm tháng đã tôi rèn ý chí của đoàn tăng ni Tịnh Độ Non Bồng với tấm gương ngời sáng chính là Ni trưởng Huệ Giác mà trong bài kệ Khuyến tu còn lưu lại:
Làm người Phật tử Tây phương, Trên non dưới thế tuyết sương bền lòng
Dầu cho cực khổ mặn nồng, Chí tâm niệm Phật thoát vòng tử sanh.
Khuyên ai thiện trí khách lành, Hiền nhơn quân tử tu hành đừng quên…
Năm 1962, Ni trưởng và hội đồng trưởng lão môn phong thành lập Phật Học Đường Tây Phương và trường trung tiểu học Lâm Tỳ Ni để đào tạo Tăng tài với 250 Tăng Ni sinh trong hệ phái theo học.
Năm 1965 (Ất Tỵ) thì Tổ đình Linh Sơn và Phật học đường bị chiến tranh tàn phá. Toàn thể Tăng Ni Tổ đình Linh Sơn đều rời núi Dinh tản cư và tạm trú nhiều chùa như Phổ Hiền Phật Tự, Chùa Cây Xoài (Bà Điểm), Tịnh Xá Thắng Liên Hoa (Cù Lao), Nhứt Nguyên Bửu Tự (Lái Thiêu). Tại những ngôi chùa này, Ni trưởng và quý trưởng lão môn phong tiếp tục chương trình giảng dạy giáo lý để sự tu học của Tăng Ni trong hệ phái không bị gián đoạn.
Năm 1966, Ni trưởng thọ giới Thức Xoa Ma Na tại Giới Đàn Liên Tông Tự, do Hòa Thượng Thích Huệ Chiếu làm Hòa Thượng đàn đầu.
Tổ đình Linh Sơn – Núi Dinh từng khai khóa niệm Phật từ năm 1961 do tiếp nhận phương tiện pháp môn này từ Ngài Thượng Thủ kiêm Pháp chủ Thích Khánh Anh. Đến năm 1966, tại Nhứt Nguyên Bửu Tự, Ni trưởng đã xin phép Đức Tôn Sư khai khóa Niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh”. Khóa này luân phiên niệm Phật đúng 100 ngày không ngừng nghỉ (từ mùng 8/8 âm lịch đến 17/11 - khánh vía Đức Phật A Di Đà). Truyền thống cao đẹp này vẫn được tông phong duy trì cho đến ngày nay.
Năm 1966 (Bính Ngọ), sau khi Quan Âm Tu Viện làm lễ đặt đá, thì Ni trưởng là người tiên phong vận động tài chánh xây dựng cho đến khi hoàn thành. Các hoạt động Phật sự tại Quan Âm Tu Viện thời đó rất hưng thịnh. Số lượng Tăng - Ni lên đến gần bốn trăm vị. Ni trưởng đã dời trường Trung - Tiểu học Lâm Tỳ Ni từ tổ đình Linh Sơn về và tổ chức giảng dạy Phật pháp cho hội chúng, thành lập thư viện, tổ chức thuyết pháp giảng kinh hàng tuần cho Tăng - Ni, tín đồ Phật tử.
Năm 1967 (Đinh Mùi), Ni trưởng thọ Cụ túc giới và Bồ Tát giới tại Tổ Đình Long Thiền (Biên Hoà – Đồng Nai) do Hòa thượng Thích Huệ Thành - Tăng Thống Phật giáo Cổ truyền làm Hòa Thượng đàn đầu. Cũng từ năm đó, Ni trưởng bắt đầu giảng dạy giới luật cho toàn thể chư Ni của tông phong tại Quan Âm Tu Viện, Tịnh Xá Thắng Liên Hoa và Linh Sơn Cổ Tự.
Năm 1968, Ni trưởng cùng chư tôn đức trưởng lão môn phong tổ chức đại hội lần I, kỷ niệm 10 năm thành lập Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng (1957-1967).
Năm 1975, đất nước thông nhất, bên cạnh công tác từ thiện của cô nhi viện Phước Lộc Thọ, Ni Trưởng quan tâm đến nâng cao chất lượng giảng dạy Phật pháp tại trường Lâm Tỳ Ni. Người đã cung thỉnh chư tôn đức giáo hội tham gia làm giáo thọ tại Quan Âm Tu Viện như Hòa Thượng Huệ Trí, Hòa Thượng Thiện Thông, Sư Thiện Giác, Sư Giác Xuất, Thượng Tọa Minh Thành (chùa Ấn Quang), Ni sư Như Quang (chùa Vạn Đức) ...
Năm 1978, Cô nhi viện Phước Lộc Thọ giải tán theo chính sách chung. Ni trưởng dành nhiều thời gian cho việc nhập thất và giảng dạy giáo lý Tịnh độ và Kinh điển Đại thừa cho Tăng Ni trong hệ phái, đặc biệt là quan tâm dạy giới luật cho chư Ni, thuyết pháp hàng tuần cho giới cư sĩ tại Quan Âm Tu Viện. Đông đảo Phật tử về quy y Tam Bảo, phát tâm trường chay niệm Phật. Tính đến nay, số lượng Phật tử của cả môn phái lên đến hơn 2 triệu người.
Năm 1982, Đức Phó Pháp Chủ - Hòa thượng Thích Huệ Thành mời Ni trưởng chính thức tham gia công tác giáo hội. Suốt 30 năm (1982 – 2012), Ni trưởng đã thừa hành Phật sự với tư cách ủy viên BTS, trưởng Ban Từ Thiện và Phó ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Đồng Nai trong các nhiệm kỳ III, IV, V, VI và VII.
Năm 2007: Ni trưởng được tấn phong hàng giáo phẩm tại Đại hội Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI tại Hà Nội.
Năm 2007 – 2012 (Nhiệm kỳ VI) Ni trưởng được cử làm ủy viên HĐTS Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ủy viên Ban Từ Thiện Xã Hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 2008: Khi Phân ban Ni giới TW thành lập, Ni trưởng được đề cử là Phó phân ban Ni giới Trung Ương, chuyên trách Từ thiện Xã hội của nhiệm kỳ VI (2007 – 2012).
Năm 2013: Ni trưởng làm Cố vấn Phân ban Ni giới TW nhiệm kỳ VII (2012 – 2017).
II. GIÁO DẠY NI CHÚNG – LÃNH ĐẠO MÔN PHONG VÀ THAM DỰ CÁC GIỚI ĐÀN
Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng do đức Tôn sư thượng Thiện hạ Phước sáng lập, tu tập pháp môn Tịnh Độ, xiển dương chánh pháp Phật đà, trong dòng chảy của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Do đặc thù của môn phong có cả Tăng và Ni nên Ni trưởng đã đề cao tinh thần thượng tôn giới luật, Tăng và Ni tu tập đều có ngằn mé rõ ràng, nghiêm túc chấp hành nội quy Ban Tăng sự và các điều lệ của Môn Phong.
Đặc biệt, đối với Ni giới trong hệ phái, Người khuyến tấn tu hành phải tinh nghiêm giới luật, công quả, công phu, quên mình phụng sự như nuôi dạy cô nhi, chăm sóc người già, trồng rừng, làm rẫy, tịnh niệm cần chuyên như trong nhiều thi kệ:
Hãy lắng đọng tâm hồn người tu nữ, Giới hạnh trang nghiêm mát mẻ cõi lòng
Trải trần kiếp thân nương bể tục, Khổ nhọc nhằn lao lý chẳng hề than
Không bợn nhơ bụi hồng len lỏi, Hương ngạt ngào, hương đức hạnh toàn chơn.
Từ khi giáo hội Phật giáo Đồng Nai được thành lập, Ni trưởng thường được cung thỉnh vào ban chức sự các giới đàn với tư cách là Phó đàn chủ, Giáo thọ, A xà lê, Tôn chứng sư, thành viên ban giám khảo... Ngoài ra, Ni trưởng là đàn đầu hòa thượng truyền giới cho các giới tử Ni trong những giới đàn sau:
Năm 2009: Ni trưởng là Hòa thượng đàn đầu truyền giới Sa di ni – Đại giới đàn Nguyên Thiều - Tổ đình Long Thiền, Tp. Biên Hòa.
Năm 2011: Ni trưởng là Hòa thượng đàn đầu truyền giới Thức Xoa ma na - Đại giới đàn Nguyên Thiều – Siêu Bạch tại tổ đình Long Thiền, TP.Biên Hòa.
Năm 2013: Ni trưởng là Hòa thượng đàn đầu truyền giới Thức Xoa ma na - Đại giới đàn Minh Vật Nhất Tri tại chùa Tỉnh Hội, TP.Biên Hòa.
Năm 2015: Ni trưởng làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới Thức Xoa ma na - Đại giới đàn Thiện Khải tại chùa Tỉnh hội, TP.Biên Hòa.
Trong các mùa an cư kiết hạ, Ni trưởng là Phó thiền chủ, giảng sư, kiêm Bố tát sư trường hạ Ni của tỉnh Đồng Nai tổ chức tại chùa Đại Giác; đặc biệt, Quan Âm Tu viện là một trụ xứ có gần 150 vị Ni với hơn 100 tỳ kheo Ni nên giáo hội Đồng Nai cho phép tổ chức an cư kiết hạ tại trụ xứ từ nhiều năm qua. Với cương vị Thiền chủ hạ trường Ni của Quan Âm Tu Viện, Ni trưởng luôn sách tấn Ni giới cấm túc an cư, tu hành nghiêm mật. Hàng tuần Ni trưởng giảng dạy hạ trường một buổi chuyên về giới luật, một buổi dạy Kinh điển Đại thừa và các chuyên đề Tịnh Độ.
Hội đồng tông phong công cử Ni trưởng làm viện chủ kiêm trụ trì Quan Âm Tu Viện từ năm 1978 – 2019. Suốt 40 năm ở vai trò lãnh đạo một tông phong, trụ trì một tu viện mà trong đó có trên vị 200 Tăng Ni, điều hành cả một hệ phái trên ngàn tu sĩ và hàng chục vạn Phật tử, Ni trưởng đã hoàn thành các Phật sự làm rạng danh người con gái dòng họ Thích.
Do tuổi cao sức yếu, nên vào tháng giêng năm 2019, Ni trưởng và hội đồng tông phong đã thành lập Ban quản trị gồm 11 vị giáo phẩm Tăng Ni, trong đó, Hòa Thượng Giác Quang đảm nhận chức vụ Trụ trì tiếp tục điều hành Phật sự tại đây.
III. TRÙNG TU VÀ XÂY DỰNG CÁC TỰ VIỆN
Với công hạnh Bồ Tát cùng với thiên năng sáng tạo, Ni trưởng đã sáng lập và chứng minh hơn 185 ngôi chùa trong hệ phái, trực tiếp chỉ đạo xây dựng những công trình sau:
1.Tổ đình Thành An Tự - Núi Sập - An Giang
2.Tổ Đình Bửu Quang – Ba Chúc – Núi Dài – An Giang
3.Bửu Hoa Ni Viện (Long Thành – Đồng Nai)
4.Chùa Long Phước Thọ (Long Phước – Long Thành – Đồng Nai).
5.Chùa Tây Phương – Núi Dinh (BRVT)
6. Huỳnh Mai Tịnh Viện (BRVT)
7. Chùa Chiên Đàn Hương – Đức Trọng – Lâm Đồng.
8. Hương Lâm Tịnh xá – Lộc Ninh – Bình Phước.
9.Chùa Long Phước Điền – Long Thành – Đồng Nai.
10.Chùa Tịnh Vân – Bảo Lộc – Lâm Đồng.
11.Chùa Dược Sư 1 và 2 - Bảo Lộc Lâm Đồng.
12.Chùa Thiên Quang – Dĩ An – Bình Dương
13.Chùa Hiệp Khánh – Tân Uyên – Bình Dương
14.Chùa Giác Hoa – Thủ Dầu Một – Bình Dương.
15.Cát Tường Tịnh Viên – TP Ban Mê Thuột - Daklak
CHỈ ĐẠO ĐẠI TRÙNG TU
1. Tổ đình Linh Sơn 1 – Núi Dinh (BRVT)
2. Tổ đình Linh Sơn 2 – Phú Mỹ – Hội Bài (BRVT)
3. Tam Thiện Tự – Long Thành – Đồng Nai.
IV. GIẢNG KINH VÀ SÁNG TÁC
Ni trưởng đã giảng dạy gần ngàn pháp thoại cho người xuất gia và tại gia, nhiều lời dạy còn ghi chép lại dưới dạng tác phẩm hay kệ pháp được kết tập lại dưới các nhan đề:
- Đồng Nai Tiểu Trạch Nhất Minh Đăng, Pháp Môn Tịnh Độ, Từ Bi Thủy Sám giảng luận, Quan Thế Âm Tín Luận giảng giải, Tịnh Độ Bảo Huấn, Kinh Thập Thiện diễn giảng, 38 pháp Hạnh Phúc giảng giải, Rừng Thơ Suối Nhạc (6 tập), Tây phương Du Ký giảng giải, Di Đà yếu giải.
- Tái bản ấn tống nhiều lần các tác phẩm xiển dương pháp môn Tịnh Độ như Hương Quê Cực Lạc, Lá Thư tịnh Độ, Niệm Phật Thập yếu, Pháp Sư Ấn Quang Gia Ngôn Lục, Tỳ ni Hương Nhũ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ...
V. HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN XÃ HỘI
Với tâm nguyện cứu khổ ban vui, cuộc đời của Ni trưởng là cả một sự nghiệp cống hiến và phụng sự cho nhân thế.
Từ năm 1960, Ni trưởng đã sáng lập Trung tâm Phật giáo Từ Thiện Xã Hội Miền Đông với cơ sở là Cô Nhi Viện Phước Lộc Thọ tại núi Dinh trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn vất vả từ những năm tháng còn chiến tranh. Cơ sở từ thiện này hoạt động suốt 18 năm liền từ trên núi rồi tiếp nối xuống Quan Âm Tu Viện (1960 – 1978). Suốt thời gian ấy, với cương vị là giám đốc, Ni trưởng đã trực tiếp đứng ra chỉ đạo nuôi dạy mấy trăm em cô nhi cho đến khi chính phủ cho lệnh giải tán theo chính sách chung. Thời kỳ đầu trong am sâu cùng cốc trên núi vắng, Ni trưởng và chư Tăng Ni đã vác gạo và lương thực từ dưới đất lên núi Dinh. Thời đó chưa có đường đi, Tăng Ni dấn thân vào cỏ rậm đầy gai góc mà chuyển tải.
Thời chiến tranh Ni trưởng đã cưu mang rất nhiều người có gia cảnh nghèo khổ, người già neo đơn. Trong số đó có nhiều chiến sĩ tham gia cách mạng ở ẩn nấp trên vùng Núi Dinh suốt nhiều năm trường mà giờ đây họ trở thành nhân chứng sống. Với công hạnh đó, vào năm 2001, chủ tịch nước CHXHCNVN đã ban tặng Ni trưởng Huân chương Kháng chiến cứu nước hạng 3.
Vào năm 1965, do bom đạn đánh phá, Tăng Ni của hệ phái đã phải tản cư về các chùa dưới miền xuôi. Với tâm từ bi, Ni trưởng đã bồng ẵm từng em bé từ Cô nhi viện Phước Lộc Thọ - Núi Dinh về miền xuôi nuôi dưỡng. Ni trưởng đã thành lập cô nhi viện Từ Ái (Tịnh xá Thắng Liên Hoa), cô nhi viện chùa Phổ Hiền, cô nhi viện chùa Phước Thiện An.
Sau khi xây dựng Quan Âm Tu Viện, Ni trưởng đã thành lập Cô nhi viện Phước Lộc Thọ tại đây, mở viện Liên viện Tịnh độ chăm sóc hàng trăm cụ già neo đơn, hàng ngày sáu thời niệm Phật, sống an tịnh cho đến lúc vãng sanh.
Tâm từ bi và sự hy sinh quên mình để cứu khổ chúng sanh của Ni trưởng là một bài học sống động nên chư Ni một số chùa trong tông phong đã phát tâm nuôi người già yếu như Huỳnh Mai Tịnh Viện, Bửu Hoa Ni Viện; Nuôi dưỡng trẻ em bị nhiễm chất độc da cam (chùa Long Phước Điền – Long Thành – Đồng Nai), chăm lo cuộc sống tinh thần và vật chất cho hàng ngàn người mù với phương châm “Mắt mù mà tâm không mù” (tại chùa Thiên Quang – Dĩ An – Tỉnh Bình Dương), thành lập phòng thuốc Nam miễn phí tại Quan Âm Tu Viện; Xóa nạn mù chữ và dạy học miễn phí cho học sinh nghèo, trẻ mồ côi (Chùa Liên Hoa – Quận 8 – TPHCM)...
Ni trưởng thường xuyên đi ủy lạo những nơi khó khổ, vùng sâu vùng xa, quan tâm đến người nghèo, trẻ mồ côi, người bị si đa, chất độc da cam, người phong cùi, mù lòa, khuyết tật, hay những vùng dân tộc thiểu số, nơi bị thiên tai lũ lụt... Dù xa xôi cách mấy, đi bao nhiêu ngày đường vất vả, Ni trưởng cũng tự thân đến tận nơi trao từng phần quà gói cả tình thương. Vào những lúc sức khỏe Ni trưởng không được tốt, có người muốn giúp Ni trưởng bê những túi gạo to trao tay kẻ khó thì Người đã nói: “Già muốn tự tay làm, cho quà phải có tâm, phải thương người mà chú nguyện cho người hết nghèo, hết khổ!”
Hiểu rõ nhiều việc làm của Ni trưởng Huệ Giác nên Ni trưởng Huệ Từ (hiện là phó thường trực Phân ban Ni giới TW) từng chia sẻ: “Những năm cuối của thập niên 70 thành phố Biên Hòa còn khổ lắm. Tôi đã thành lập một tổ hợp Mây tre lá mang tên là hợp tác xã Thành Công để tạo công ăn việc làm cho dân. Cơ sở được khen tặng là lá cờ đầu của tỉnh Đồng Nai trong bảy năm liền. Thành tựu này một phần lớn là nhờ vào công đức thầm lặng của Sư bà Huệ Giác. Khi tôi về thành phố HCM với cương vị Phó ban Từ thiện TW GHPGVN suốt hơn hai mươi năm, thì Sư bà Quan Âm Tu Viện lại tiếp tục đồng hành với với tôi hỗ trợ đời sống dân nghèo trong cả nước. Sư bà chỉ làm mà ít nói, tâm lượng từ bi như Bồ Tát Quan Âm vậy.”
Ca ngợi tâm từ bi của Ni trưởng, thi sĩ Thân Thị Ngọc Quế có thơ:
Sớm biết biết Kim Cang cành trúc vắng, Ngày vang Bát Nhã bóng chiều nghe
Yêu sao mây trắng vùng cây ngát. Nhớ mãi xuân tàn lối mộng che.
Dẫu biết Bồ đề cơn gió thoảng. Vẫn thương nhánh cỏ giọt sương hè.
VI. SỰ NGHIỆP TRỒNG CÂY GÂY RỪNG - BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG XANH
Ngày nay, đứng trước các sự kiện liên quan đến biến đổi khi hậu toàn cầu, sập vỡ đê điều, thiên tai lũ lụt, hàng tỷ người không được tiếp cận nguồn nước sạch thì vấn đề sinh thái đang được cả thế giới quan tâm.
Trồng cây xanh là một trong những vấn đề thiết yếu để bảo vệ trái đất và cuộc sống muôn loài. Với tâm nguyện làm đẹp danh lam thắng cảnh, làm thanh sạch môi trường, Ni trưởng đã để lại dấu ấn cho đời với kỳ tích trồng ngàn mẫu rừng.
Từ năm 1982, Ni trưởng Huệ Giác triển khai việc trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi trọc ở những khu đất quanh chùa chiền, tinh xá, tự viện.
Năm 1984, chính quyền tỉnh Đồng Nai chính thức giao cho Ni trưởng nhiều khu đất từ Long Phước, Long Thành trải dài đến núi Dinh, xã Hội Bài, huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Giai đoạn đó, Ni trưởng và môn phong đã quản lý một dãy rừng rộng lớn thuộc hai địa bàn của tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu với diện tích 350 hecta. Ngày nắng đêm sương, gió mưa chẳng quản, những khu rừng này vẫn được chăm sóc, duy trì và mở rộng cho đến hôm nay. Sau đó, Ni trưởng tiếp tục vận động tăng ni và Phật tử trong môn phong mở rộng địa bàn trồng rừng ở Tà Thiết, Lộc Hưng, Lộc Khánh – tỉnh Bình Phước, 200 hecta trồng cây thông và tràm tại Đơn Dương Và Đức Trọng (Lâm Đồng), tại Bảo Lộc trồng 30 hecta tràm và quế, huyện Dateh trồng 200 hecta rừng và cây công nghiệp,... Theo thống kê của tông phong, tổng diện tích rừng đang được bảo vệ là 907 hecta, trong đó có 50 hecta rừng phòng hộ với nhiều loại gỗ quý.
Ngoài ra, thực hiện tinh thần tự túc kinh tế nhà chùa, Ni trưởng đã từng hướng dẫn Tăng Ni khai khẩn đất hoang, tạo lập hàng chục mẫu ruộng, rẫy ở nhiều ngôi chùa, trồng 15 mẫu cây ăn trái tại Bình Thuận.
Dưới sự lãnh đạo và quyết tâm bền chí của Ni trưởng, gần nghìn hecta rừng hoang đã được Tăng Ni Liên tông Tịnh Độ Non Bồng dày công khai khẩn đất hoang, phủ xanh đồi trọc, tươi màu hoa lá trái, đem lại môi trường xanh và đẹp cho quê hương, đồng thời tự túc được kinh tế nhà chùa cho các tự viện của tông phong, đáp ứng có hiệu quả Nghị quyết kỳ II Khóa I của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
Ni trưởng suốt cuộc đời đi gieo hạt giống xanh tươi cho cuộc đời, khai khẩn đất hoang vu, trồng cây xanh bảo vệ môi trường, làm đẹp danh lam thắng cảnh tòng lâm cho đất nước Việt Nam và chính Ni trưởng cũng là bóng mát đại thụ giữa chốn tòng lâm, che mát cho các hàng đệ tử liên tông Tịnh Độ Non Bồng trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
VII. THẦY TỔ PHÓ CHÚC KẾ VỊ TỔ NGHIỆP
Nhận thấy Ni trưởng là bậc đạo hạnh nghiêm minh, tâm đức, giới đức và tuệ đức luôn ngời sáng, cả cuộc đời hy sinh cho đạo pháp cho dân tộc, đặc biệt là làm rạng rỡ tông phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng nên Đức Tôn sư thượng Thiện hạ Phước phó chúc cho Ni trưởng là Trưởng tử từ khi Ngài còn sinh tiền, dưới sự chứng minh tối cao của Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức và Hội đồng Tăng lữ trong hệ phái.
Sau khi Đức Tôn Sư viên tịch vào năm 1986, Ni trưởng được suy tôn là Tông trưởng của môn phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng trong niềm tôn kính và hiếu trọng ân sư của toàn thể Tăng Ni sơn môn pháp phái. Hiện nay, Tu sĩ trong hệ phái theo thống kê gần nhất hiện nay là 1300 vị với 185 tự viện đều một lòng chuyên tu Tịnh độ, góp phần xây dựng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngày càng phát triển.
VIII. TÁN DƯƠNG CÔNG ĐỨC
Với những công đức mà Ni trưởng đã đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, Ni trưởng đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng thưởng:
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng III năm 2001.
- Huân chương Lao động hạng III năm 2015.
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2013
- Huy hiệu Sao Vàng Đồng Nai năm 2008.
- Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Đại Đoàn kết toàn dân của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2015).
- Huy chương vì sự nghiệp Nhân đạo do Trung ương Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam (2004)
- Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016).
- Huy hiệu Trống Đồng Đông Sơn của Thủ tướng chính phủ năm (2016).
- 9 Bằng khen của UBND tỉnh Đồng Nai.
- Nhiều bằng khen của Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và của Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Đồng Nai.
Là một trong những bậc Ni Lưu đức hạnh cống hiến trọn đời cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, Ni trưởng đã góp phần phụng sự đất nước từ những năm kháng chiến cứu nước, xây dựng đất nước và bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc. Ni trưởng suốt cuộc đời thể hiện phong thái một bậc chân sư nghiêm từ và giản dị, tâm từ bi, hạnh giải thoát thanh cao. Người đã giáo dưỡng và dìu dắt hàng trăm đệ tử trưởng thành, giữ vững đạo tâm, trang nghiêm Giáo hội. Cả một cuộc đời bằng tâm đức, trí đức và tuệ đức, Ni trưởng đã xây dựng Tông phong đỉnh thịnh, làm xanh làm đẹp môi trường sinh thái, góp phần tạo nên những trang sử Phật giáo vàng son cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tâm Giang/ Quan Âm Tu Viện (Biên Hòa, Đồng Nai)