;
Theo GS Nguyễn Lang, sự suy thoái là do tăng đoàn ỷ lại vào sự ủng hộ của vua quan, hay nói cách khác là những người có quyền thế. Khi sự ủng hộ không còn thì tăng đoàn cũng mất chỗ dựa nên suy thoái.Quan trọng hơn, sự suy thoái là do Phật giáo thiếu đào tạo tăng tài trong khi quá chú trọng xây nhiều chùa chiền; do tăng đoàn thiếu người tài đóng góp trí tuệ trong khi số người làm nghi lễ, cầu nguyện thì quá nhiều; do thành phần bất hảo trà trộn vào làm hại thanh danh; do sự kính trọng nhiều nên tăng sĩ sanh tâm kiêu hãnh; và do được cúng dường nhiều nên tăng sĩ ỷ lại. Sự nhận định trên là nói về tăng đoàn vào cuối thời Trần nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị của nó cho đến ngày nay.
Theo giáo lý Phật giáo, vô thường là một chân lý. Sự thăng trầm, thịnh suy của một quốc gia hay một tôn giáo là điều không thể tránh khỏi. Phật giáo cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, sự thịnh suy của Phật giáo không phải là vô cớ mà nó có các nhân duyên. Trong đó, hai nhân tố cốt yếu là quần chúng Phật tử và bản thân các thành viên của tăng đoàn. Trong hai yếu tố đó thì tăng đoàn là yếu tố quyết định. Với vai trò và trọng trách của tăng đoàn đối với sự sống còn của Phật giáo nên tăng đoàn luôn được thanh lọc để đạt được sự thanh tịnh, hòa hợp, vững mạnh. Sự thanh lọc phần lớn là do nội bộ tăng đoàn thực hiện nhưng trong nhiều trường hợp nó lại do sự đóng góp của hàng cư sĩ. Trong phạm vi này, người viết sẽ đề cập sự đóng góp của hàng cư sĩ Phật tử trong việc thanh lọc tăng đoàn xuất gia Phật giáo xưa và nay ở Việt Nam.
Các cuộc thanh lọc tăng đoàn ở Việt Nam
Tăng đoàn xuất gia đã từng được thanh lọc bởi các cư sĩ Phật tử. Đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam, không ai phủ nhận sự cực thịnh của Phật giáo Việt Nam dưới hai triều đại Lý và Trần. Thời ấy, Phật giáo trở thành quốc giáo. Do Phật giáo được quần chúng và nhất là triều đình ủng hộ nên tăng đoàn được hưởng nhiều ưu ái. Từ đó, sự ỷ lại của tăng đoàn và sự lợi dụng của một số phần tử để gia nhập tăng đoàn là điều khó tránh khỏi. Kết quả là tăng đoàn đông nhưng không mạnh, số lượng nhiều nhưng thiếu phẩm chất. Trước tình trạng ấy các cư sĩ – các vua đã xuống chiếu thanh lọc tăng đoàn. Sự kiện này xảy ra vào các thời Lý Cao Tông năm 1198,[1] thời Trần Thuận Tông năm 1396,[2] Lê Thái Tổ năm 1429.[3] Sau đó vào thế kỷ 17, chúa Nguyễn Phúc Chu cũng đã ủy thác cho sư Đại Sán (thiền sư Thạch Liêm) thanh lọc tăng đoàn để chấn hưng Phật giáo.[4] Việc làm này không phải chỉ xảy ra ở Việt Nam mà nó đã từng được thực thi vào thời đại đế Asoka khoảng thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Đại đế Asoka – một vị vua Phật tử rất nổi tiếng, đích thân ngồi phía sau tấm màn để nghe vị Tăng trưởng thẩm vấn các vị xuất gia về Phật pháp. Nếu vị nào trả lời không đúng chánh pháp sẽ bị đuổi ra khỏi tăng đoàn.[5] Vấn đề đặt ra là tại sao người ngoài tăng đoàn lại quan tâm thanh lọc mà không phải chính người của tổ chức ấy? Để trả lời câu hỏi ấy ta cần hiểu về mô thức sinh hoạt của tăng đoàn.
Mô thức sinh hoạt của tăng đoàn xuất gia
Tăng đoàn xuất gia sinh hoạt theo mô thức tự giác, tự động, và thích ứng hơn là mô hình tổ chức chặt chẽ tập quyền. Tác giả Erik Zürcher thì nhận định Phật giáo ‘phát triển bằng tiếp cận’ tức là cách phát triển phân nhánh của rễ cây.[6] Ngay từ buổi đầu thành lập, tăng đoàn đã minh chứng mô thức này qua việc đức Phật dạy 60 A-la-hán mỗi vị đi theo mỗi hướng để truyền bá chánh pháp theo khả năng của họ. Phật giáo truyền qua Trung Quốc và Việt Nam cũng theo mô thức này cộng thêm sự thích nghi. Khác với tu sĩ Phật giáo ở Ấn độ di cư bất định (thời Phật), các nhóm tu sĩ Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam sống định cư trong hệ thống các tự viện được phát triển bởi sự hỗ trợ của cư sĩ. Nói cách khác, tăng sĩ Phật giáo sống nhờ vào sự cúng, biếu của cư sĩ. Do đó, tăng đoàn phát triển nhanh hay chậm với số lượng nhiều hay ít đều phụ thuộc vào điều kiện, khả năng đóng góp của cư sĩ. Cơ chế này lý giải sự khác nhau về sự lớn mạnh của các cộng đồng Phật giáo giữa nơi có nhiều mạnh thường quân hiến cúng và nơi ít có. Mặc khác, cơ chế này cũng phản ảnh tính tự phát của nó bởi các tăng đoàn cơ sở hầu như không phải chịu một giáo quyền áp đặt nào từ trung ương tập quyền.
Như vậy, cư sĩ đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định sự tồn tại của tăng đoàn. Khi tăng đoàn vững mạnh bởi uy tín và sự đóng góp tích cực của nó cho đất nước và quần chúng, nó được ủng hộ mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi nó biểu hiện sự sa sút do các phần tử của nó thiếu hành trì hay vi phạm giới luật thì nó bị xa lánh, tẩy chay. Đó là cách cư sĩ phản ứng phổ biến. Với cách thức tích cực hơn, cư sĩ có thể góp ý hay cao nhất là chỉ đạo để tăng đoàn thanh lọc. Trường hợp chỉ đạo đã xảy ra ở Việt Nam như đã trình bày. Tuy nhiên, nó chỉ có thể được thực hiện trong chế độ quân chủ. Nếu vị quân chủ cư sĩ Phật tử anh minh thì việc chỉ đạo thanh lọc tăng đoàn chắc chắc là một diễm phúc đối với Phật giáo.
Nguyên nhân thanh lọc
Nguyên nhân dẫn đến sự thanh lọc tăng đoàn là do nó bị suy thoái. Thật là vô lý nếu ai đó đòi hỏi phải thanh lọc tăng đoàn đầu tiên thời đức Phật. Thanh lọc là do suy thoái, nhưng tại sao nó bị suy thoái? Theo GS Nguyễn Lang, sự suy thoái là do tăng đoàn ỷ lại vào sự ủng hộ của vua quan, hay nói cách khác là những người có quyền thế. Khi sự ủng hộ không còn thì tăng đoàn cũng mất chỗ dựa nên suy thoái. Quan trọng hơn, sự suy thoái là do Phật giáo thiếu đào tạo tăng tài trong khi quá chú trọng xây nhiều chùa chiền; do tăng đoàn thiếu người tài đóng góp trí tuệ trong khi số người làm nghi lễ, cầu nguyện thì quá nhiều; do thành phần bất hảo trà trộn vào làm hại thanh danh; do sự kính trọng nhiều nên tăng sĩ sanh tâm kiêu hãnh; và do được cúng dường nhiều nên tăng sĩ ỷ lại.[7]Sự nhận định trên là nói về tăng đoàn vào cuối thời Trần nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị của nó cho đến ngày nay.
Động cơ thanh lọc
Phải chăng động cơ thanh lọc tăng đoàn là vì chấn hưng Phật giáo? Dựa vào các trích dẫn trên thì động cơ của nó là vì làm mạnh Phật giáo. Trong đó, động cơ của vua Asoka và chúa Nguyễn Phúc Chu chắc hẳn là tích cực, là vì Phật giáo và xã hội. Tuy nhiên, động cơ thanh lọc mà thực chất là thanh trừng do kỳ thị cũng đã xảy ra như trường hợp của Lý Cao Tông và Trần Thuận Tông?![8] Dù vậy, ta cũng thừa nhận rằng Phật giáo lúc ấy yếu kém và suy thoái. Do đó, thanh lọc với động cơ nào cũng có ý nghĩa như là tiếng chuông làm thức tỉnh Phật giáo. Nhờ tiếng chuông ấy Phật giáo mới lo chỉnh đốn, tăng đoàn mới lo tu tập.
Thanh lọc thời nay
Ngày nay, Phật tử chân chính là thành phần quan trọng góp phần thanh lọc tăng đoàn. Có thể nói rằng tăng đoàn xuất gia hiện tại không phải là hoàn toàn thanh tịnh như thời đức Phật nên việc thanh lọc vẫn là nhiệm vụ không thể xem thường. Về nội bộ, Giáo hội Phật giáo căn cứ vào hiến chương và nội quy tăng sự để củng cố tăng đoàn. Tuy nhiên, do cơ chế đặc thù của Phật giáo như đã nêu ở trên, nhiệm vụ này xem ra gặp nhiều trở ngại và ít có hiệu quả. Về yếu tố ngoại tại, sự lớn mạnh của các tôn giáo khác là một áp lực để tăng đoàn thanh lọc. Về phía cư sĩ, với vai trò hộ trì đời sống tăng đoàn, cư sĩ chính là thành phần quan trọng có thể làm cho tăng đoàn tự phải thanh lọc nhanh nhất. Một khi cư sĩ không còn tìm đến tăng đoàn chỉ vì cảm tình, vì mê tín, vì khoe mẽ …mà chỉ vì nhu cầu tu học chánh pháp thì sự thanh lọc tăng đoàn tự động diễn ra. Xem ra, đây là một giải pháp lý tưởng.
Người xuất gia và tại gia là hai thành phần không thể tách rời trong Phật giáo kể từ ngày đạo Phật hình thành cho đến ngày nay. Cả hai đều có trách vụ hỗ trợ lẫn nhau theo chức năng của mình để làm cho Phật giáo cường thịnh. Khi tăng đoàn suy thoái hay yếu kém thì đương nhiên chính tăng đoàn phải thanh lọc, nhưng sự đóng góp của cư sĩ lại là động lực thúc đẩy quan trọng. Cư sĩ có thể đóng góp bằng những cách khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là để làm cho tăng đoàn vững mạnh. Tăng đoàn vững mạnh sẽ mang lại nhiều lợi ích cho giới cư sĩ, và cho xã hội. Đây là mối quan hệ tốt đẹp cần duy trì và phát huy.
[1] Nguyễn Lang. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Hà Nội: NXB Văn Học, tr. 202.
[2] Sđd, tr. 481.
[3] Sđd, tr. 481; Thích Mật Thể. Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, tr.191. ( bản pdf. Trang nhà Quảng Đức)
[4] http://www.quangduc.com/vietnam/67htthachliem.html
[5] The Mahavamsa (Phật sử). Mahanama Thera soạn. Wilhelm Geiger dịch, (bản pdf, p. 44).
[6] Cũng được gọi là sự phát triển từ cơ sở hạ tầng, thể theo quan niệm : “nhân dân và xã hội có trước, uy quyền và nhà nước có sau”. Ngược với quan niệm của cách phát triển “phong tước kiến địa”, gọi tắt là “phong kiến”. Theo cách thứ hai, phải có một uy quyền trung ương có sẵn, uy quyền lãnh đạo, chọn một số người, phong tước và cấp phương tiện cho họ để đi kiến lập uy quyền trên những vùng đất khác. (http://cusi.free.fr/pgtd/chr0051.htm)
[7] Sđd, tr. 480.
[8] GS Nguyễn Lang nhận định là có kỳ thị