;
Ngõ 199 phố Thụy Khuê nhỏ và sâu hun hút. Ngay đầu ngõ có tấm biển đề
“Chùa Châu Lâm”. Đi tiếp chừng 50m sẽ thấy hai lối vào chùa gồm số nhà
11 và số nhà 3. Diện tích của ngôi chùa này trước kia rộng tới 3.175m2,
gồm cả ruộng nương để cày cấy. Từ thời kỳ chống đế quốc Mỹ, Xí nghiệp
giầy Thụy Khuê mượn một phần đất nhà chùa để làm kho. Sau đó, dân cư vào
sinh sống, một số đã chuyển đi, còn một số hộ dân hiện vẫn ở trên diện
tích 135m2 đất chùa.
Lý giải về tên gọi của ngôi chùa là chùa Bà Đanh hay chùa Châu Lâm, ông
Nguyễn Văn Tùng cho biết, Hà Nội xưa nổi tiếng với 4 chùa là chùa Bà Đá
ở Nhà Thờ, chùa Bà Nành và Bà Ngô ở Nguyễn Khuyến, Trần Quý Cáp, chùa
Bà Đanh ở Thụy Khuê.
Chùa Bà Đanh được xây dựng từ đời vua Lê Thánh Tông. Theo sách Tây Hồ
chí, vua Lê Thánh Tông đã cho xây dựng một thiền viện (vừa là chùa, vừa
là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ nam hồ Tây để cho
người Chăm hành đạo gọi là thiền viện Châu Lâm. Chùa được xây dựng ở vị
trí gần trường Chu Văn An ngày nay, nhân dân trong vùng quen gọi là chùa
Bà Đanh vì gắn liền với tên của vị sư có mặt ngay từ buổi đầu xây dựng
và trụ trì chùa. Trong chùa hiện còn lưu tấm bia ghi tên Bà Đanh là vị
sư Tổ có công xây cất chùa.
Vì chùa xây dựng theo quy mô kiến trúc và văn hóa, tín ngưỡng của người
Chăm, phục vụ nhu cầu hành đạo của người Chăm nên từ khi xây dựng xong
chùa chỉ có bộ phận người Chăm lui tới lễ bái. Khi những người Chăm di
chuyển đến nhiều khu vực khác sinh sống và không lui tới chùa lễ bái nữa
thì chùa trở nên hoang phế. Do đó, dân gian mới có câu ví von: “Vắng
như chùa Bà Đanh”.
Pho tượng Phật Quan Âm Bồ Tát và tượng Tuyết Sơn. |
Văn bia cổ còn lưu tại chùa. |