;
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu. Ngài đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, ngoại thành Ca Tỳ La Vệ, ngày nay là xứ Nepal. Sử sách Ấn Độ cho rằng một người ra đời với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, sau này xuất gia sẽ thành Phật, sẽ đem chánh pháp giáo hoá chúng sanh. Khi Đức Thế Tôn thị hiện đản sanh, tiên nhân A Tư Đà đoán rằng sau này Ngài sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương hoặc xuất gia sẽ thành Phật; còn ngài Kiều Trần Như cho rằng Đức Thế Tôn sau này chỉ thành Phật và điều ấy đã trở thành sự thật. Lịch sử của Đức Thế Tôn có tính siêu việt giống như đoá hoa Vô Ưu mấy ngàn năm mới nở một lần. Theo tục lệ Ấn Độ, người phụ nữ hoài thai sẽ trở về quê ngoại để sinh nở, Hoàng hậu Ma-Da sắp đến ngày nở nhụy khai hoa đến vườn Lâm Tỳ Ni gặp hoa Vô Ưu nở, đưa tay hái liền hạ sanh Thái tử Sĩ-Đạt-Ta.
Đức Phật nhập thế, thị hiện là một vị Đông cung thái tử trong cung vua Tịnh Phạn. Với hoàn cảnh y báo tại vương thành Ca Tỳ La Vệ, cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-Da, Ngài ở trên đỉnh cao địa vị và danh vọng nhưng chẳng đam mê lạc thú trần gian, quyết định ra đi tìm đạo, thành đạo, trao truyền chánh pháp đến cuối cuộc đời mới thể nhập Niết bàn tự tại. Trước khi xuất gia, Ngài dạo qua bốn cửa thành thấy cảnh già, bệnh, chết và một đạo sĩ. Từ đó, Ngài trầm tư về lẽ sống chết, về thân phận của kiếp người. Con người phải chịu đựng biết bao nỗi sầu, bi, khổ, ưu, não, mãi bươn chãi theo dòng đời xuôi ngược, cuối cùng đều từ giã cõi đời với hai bàn tay trắng. Người nghèo khổ lẫn giàu sang phú quý đều trải qua sinh, già, bệnh, chết. Với ý chí, trí tuệ phi thường và lòng từ bi vô hạn, Ngài cảm nhận sâu xa nỗi khổ niềm đau của nhân thế, từ bỏ mọi thụ hưởng, quyết định vượt thành ra đi tìm đạo để cứu chúng sanh đang chịu trầm luân thống khổ trong biển sinh tử.
Đạo Phật có tư tưởng xuất thế nhưng chủ trương nhập thế để cứu khổ độ sanh. Ngày nay, Liên Hợp Quốc đã công nhận hình ảnh Ngài là biểu tượng của hoà bình thế giới. Ngài sáng lập đạo Phật, đạo của hoà bình, hợp tác, hữu nghị. Đạo Phật chủ trương hoà bình, bảo vệ sự sống, đem đến an lạc và hạnh phúc cho nhân loại. Trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật chưa từng gây ra cuộc Thánh chiến đẫm máu nào cả. Đạo Phật được công nhận là Tôn giáo Văn hoá Thế giới. Ngày lễ Phật đản của cả thế giới được Liên Hợp Quốc bảo trợ và gọi là Đại lễ Vesak. Đức Phật, giáo pháp của Ngài, Tăng đoàn hàng sứ giả của Như Lai nối truyền mạng mạch phật pháp để thông điệp từ bi cứu khổ chuyển hoá nhân sinh. Pháp là đuốc soi tỏ đường trong đêm trường vô minh tăm tối giúp chúng sanh thoát khỏi mê mờ, trở về sống an vui, hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát.
Đức Phật là Bậc Giác ngộ, đạo Phật là đạo giác ngộ, phật tử là con của Bậc Giác ngộ. Ngài truyền giáo pháp thậm thâm vi diệu, còn hàng hàng lớp lớp sứ giả Như Lai thắp lên ngọn đuốc trí tuệ để soi đường cho chúng sanh đi. Bởi thế, dân gian thường nói: “Tiên bái Trụ trì, hậu bái Thích Ca”. Chính Chư Tăng đã thay Phật nói pháp và truyền giới cho phật tử. Chư Tăng là chân lý sống động trong ba ngôi quý báu giúp phật tử hiểu giáo lý một cách thấu đáo, rõ ràng. Chư Tăng có thể xương minh phật pháp, làm cho phật pháp quang huy, đó là lý do vì sao phật tử phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Trong kinh Pháp Cú có câu:
“ Vui thay Phật ra đời
Vui thay Pháp được giảng
Vui thay Tăng hoà hợp
Hoà hợp tu vui thay.”
Đức Phật thị hiện rồi nhập Niết Bàn, để lại giáo pháp thậm thâm vi diệu. Đức Phật nhập diệt nhưng ánh sáng trí tuệ của Ngài còn tồn tại. Nếu không có hàng sứ giả Như Lai tuyên dương chánh pháp thì dần dần Phật pháp sẽ bị mai một. Chư Tăng thay Phật truyền pháp cũng cần có nếp sống thanh tịnh, là tấm gương sáng trong đời sống tâm linh. Người phật tử trong lòng vui vẻ phấn chấn khi nghe pháp thì mới có được pháp lạc mà tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của đạo Phật. Cho dù là người xuất gia hay tại gia cũng nên hoà hợp cộng tu, phật tử tại gia phải giữ gìn năm giới cấm để trở thành người phật tử chân chánh.
Vào ngày 15/12/1999 Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết chính thức công nhận ngày Đại lễ Vesak, còn gọi là Đại lễ Tam hợp là: ngày Phật đản sanh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn, cùng vào ngày trăng tròn tháng Vesak theo lịch Ấn Độ cổ nhằm tôn vinh giá trị đạo đức văn hoá, tư tưởng hoà bình của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây là ngày Lễ hội Văn hoá Tôn giáo Quốc tế. Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc tổ chức tại Srilanka đã xác nhận Phật giáo là một trong những tôn giáo cổ xưa nhất suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ đã và đang tiếp tục đóng góp rất hữu hiệu cho đạo đức tâm linh của nhân loại. Đạo Phật đã đáp ứng cho nhân loại xã hội ngày nay các giá trị an lạc, hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Người đệ tử Phật đã thọ những giới cấm, được nuôi dưỡng trong truyền thống tâm linh của Phật giáo cần tránh xa mọi tội lỗi, phân biệt rõ thiện ác, tội phước. Người phật tử chân chánh cần sống trong tinh thần của Bát chánh đạo là: Chánh kiến, thấy biết chơn chánh; Chánh tư duy, suy nghĩ chơn chánh; Chánh ngữ, nói năng chơn chánh; Chánh nghiệp, hành động chơn chánh; Chánh mạng, mưu sinh chơn chánh; Chánh tinh tấn, siêng năng chơn chánh; Chánh niệm, nghĩ nhớ chơn chánh và Chánh định, tập trung tư tưởng chơn chánh, nhằm mục đích xây dựng đời sống an lạc giải thoát. Thông thường, những gia đình thuần hoá sống trong nền luân lý đạo đức của Phật giáo thường là những gia đình thuần lương, đời sống ổn định, hạnh phúc an vui.
Đức Phật thị hiện với nhân dáng hoàn mỹ và toàn bích, với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp không ai có thể sánh bằng. Nhờ có trí tuệ siêu việt, lòng từ bi nhân ái vượt thường, đời sống tu tập chuyển hoá, Ngài kết tinh bằng những đức tính cao cả tôn quý nhất cả về thể chất lẫn tâm hồn nên chúng sanh xưng dương tán thán Ngài.
Đức Phật tuyên thuyết lần đầu tiên tại Lộc Giả Uyển về chân lý của sự thật gọi là Tứ diệu đế, tức bốn sự thật nhiệm mầu, không phải là quy ước pháp của thế gian mà là sự thật của cuộc đời bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Khổ đế là chân lý sự thật đúng đắn về sự khổ ở thế gian. Con người sinh ra phải chịu cảnh sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não mà chúng ta thường nghe là Tam khổ, Bát khổ. Tam khổ là Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Bát khổ là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hoại khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Con người chịu khổ trùng trùng điệp điệp với biết bao điều bất toàn, bất như ý trong cuộc sống ở nơi thân này không thể kể sao cho xiết. Thân bất tịnh là khổ, vô thường là khổ, thân giả hợp là khổ. Nhưng Đức Phật nói khổ để chúng sanh nhận diện sự thật rồi tìm phương thoát khổ, vì khổ làm thân tâm con người bức bách, ray rứt, thúc giục họ nhìn nhận bản chất sâu xa của cuộc sống.
Tập đế là chân lý về nguyên nhân của sự khổ. Mọi thống khổ con người đang phải gánh chịu nơi thân này, cuộc đời này chính là tham, sân, si. Tham chính là nguyên nhân của đau khổ, làm cho con người thiếu sáng suốt. Tham là nguyên động lực làm xoay chuyển bánh xe luân hồi. Người xưa thường nói tham thì thâm vì tham lam chi phối con người thấy lợi trước mắt mà không thấy hại sau lưng, tham làm cho con người đoạn tình, đoạn nghĩa, không còn nhìn xa trông rộng để nhận thức toàn diện vấn đề. Người xưa có câu: Một đốm lửa sân có thể thiêu rụi cả rừng công đức. Sân cũng là nguyên động lực vận chuyển bánh xe luân hồi, phần nhiều là tạo ra ác nghiệp trùng trùng. Si là trạng thái tối tăm trong tâm hồn, là nguyên nhân tạo ra nhiều tội lỗi, là nhân của loài súc sanh không biết tôn tri trật tự, phải trái, tốt xấu, đúng sai, không phân biệt được chơn ngụy chánh tà. Chính si mê sản sinh ra tham và sân. Nếu con người hết si mê thì được sáng suốt, vì thế chúng sanh cần tu tập để đoạn si mê. Đức Phật đã nói Tập đế là nguyên nhân của mọi khổ đau, nếu chúng sanh tu tập và đoạn trừ được tham sân si thì trong lòng bình an vui vẻ, ra khỏi trần lao sinh tử. Chư Phật, chư Bồ tát, các bậc Thánh Hiền đoạn trừ tham sân si và đã trở thành vô sanh bất tử. Các Ngài đem ánh sáng quang minh soi rọi vào cuộc đời tăm tối để vực chúng sanh ra khỏi biển khổ sông mê. Chính vì vậy, Đức Phật đã nói: Tập đế là sự thật, là nguyên động lực tạo nên tất cả nỗi khổ trong cuộc đời này.
Diệt đế là gì? Diệt đế là chân lý về sự diệt khổ. Tức là Niết bàn. Chỉ có những bậc Giác ngộ giải thoát mới thấu hiểu được trạng thái của Diệt đế là trở về với chơn tâm, phật tánh của chính mình, tu tập không còn tham sân si phiền não, không còn bị vô minh nghiệp chướng chi phối, là sự thật của xuất thế gian mà những người còn tham sân si không thể nào hiểu thấu.
Đạo đế là nhân xuất thế gian, là những pháp tu gồm có Tứ Niệm xứ, Tứ Chánh cần, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần và Bát Chánh đạo phần. Để đạt được Diệt đế Niết Bàn cần tu chuyển hoá ba nghiệp, tu tập giới định tuệ để gột rửa tham sân si, vô minh nghiệp chướng trong lòng.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển vận bánh xe Chánh pháp tại Lộc Giả Uyển độ năm anh em Kiều Trần Như đều đắc Thánh quả. Đức Phật đã thị hiện trên cõi đời này lần đầu tiên thuyết minh về Tứ đế. Cuối đời Ngài nói kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu triển khai vi diệu pháp đến đỉnh điểm mà trong kinh Pháp Hoa nói là Đại sự nhân duyên Đức Phật xuất hiện trên thế gian để khai thị chúng sanh ngộ nhập phật tri kiến. Ngài nói vô lượng pháp môn tu nhưng cuối cùng là để chúng sanh trở về lại với phật tri kiến của chính mình. Ngài xuất hiện để nói lại nguyên uỷ gốc gác của chúng sanh vốn là Phật, nhưng đã lãng quên rồi tạo nghiệp trầm luân khổ ải trong ba nẻo sáu đường, đó là bi kịch của thân phận chúng sanh.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện đản sanh, xuất gia, thành đạo, hoằng pháp rồi nhập Niết bàn. Đại sự nhân duyên Ngài xuất hiện trên cuộc đời mãi đến giờ hơn 26 thế kỷ. Nhân ngày khánh đản, người học Phật hãy làm sống dậy những giá trị cao quý của đạo Phật, bước đi trên lộ trình giác ngộ, tìm chân lý giải thoát, để mỗi mùa khánh đản trở về thừa hưởng pháp âm vi diệu, sưởi ấm bởi lòng từ bi vô hạn của Ngài mà chào đón một mùa khánh đản tràn đầy ý nghĩa.
Thiền Tự Trúc Lâm Viên Giác
Mùa Phật đản – PL. 2559