;
Di ảnh Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Chơn Thiện
Dâng hương tưởng niệm và cử hành buổi lễ có Chư tôn đức HĐCM, HĐTS GHPGVN trú xứ Thừa Thiên Huế; chư tôn đức Giáo phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT.Huế; chư tôn đức Thường trực BTS GHPGVN tỉnh TT.Huế; chư tôn đức Tăng Ni Hội đồng Chỉ đạo, Hội đồng Điều hành Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, toàn thể Tăng Ni sinh Học viện; chư tôn đức Tăng Ni các tổ đình, tự viện, Niệm Phật Đường cùng quý Đạo hữu Phật tử các giới.
Tại buổi lễ, chư Tôn đức Giáo phẩm Chứng minh thành tâm dâng hương tưởng niệm, chư Tăng Ni đồng đảnh lễ giác linh cố Trưởng lão Hòa thượng để tưởng nhớ một vị thầy khả kính đã tận tụy vì sự nghiệp Giáo dục Phật giáo, vì đạo pháp và dân tộc.
Tại chánh điện Tổ đình Tường Vân, HT.Thích Quang Nhuận, Giáo phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT.Huế đã niêm hương bạch Phật và cử hành lễ cúng Ngọ.
Trưởng lão HT.Thích Chơn Thiện, thế danh Nguyễn Hội, là đệ tử Đức cố Đại lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVN Thống nhất, pháp danh Tâm Ngộ, pháp tự Chơn Thiện, pháp hiệu Viên Giác. Hòa thượng sinh ngày 1-12-1942 (24-10 năm Nhâm Ngọ) tại làng Dưỡng Mong thượng, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 1960, hội đủ duyên lành, Hòa thượng được Đức Tăng thống bấy giờ là trú trì tổ đình Tường Vân cho xuất gia, làm thị giả cho ngài, và cho thọ Sa-di giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại tổ đình Tường Vân. Bảy tháng sau, tức năm Giáp Thìn (1964), Hòa thượng được bổn sư cho thọ Cụ-túc giới tại Đại giới đàn Quảng Đức, Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn, do Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVN Thống nhất, cố Đại lão Hòa thượng bổn sư Thích Tịnh Khiết làm Đường đầu.
Sau ngày thọ Cụ-túc giới, Hòa thượng được bổn sư gửi theo học chương trình cử nhân Phật học tại Pháp Hội và sau đó học cử nhân Văn khoa tại Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Năm 1968, Hòa thượng tốt nghiệp cử nhân Văn khoa cùng cử nhân Phật học - Triết học Đông phương.
Từ tháng 8-1968 đến tháng 3-1969, Hòa thượng đảm nhiệm công tác Quản trị Nội xá Đại học Vạn Hạnh.
Từ năm 1969 đến 1972, Hòa thượng được cử sang du học tại Hoa Kỳ, theo học bổng Cơ quan Văn hóa Á châu (Asia Foundation) và tốt nghiệp cao học Tâm lý Giáo dục tại Đại học Ohio, Hoa Kỳ.
Sau khi về nước, từ năm 1972 đến 1975, Hòa thượng được cử làm Phó Giám đốc Sinh viên vụ đặc trách Hướng dẫn Tâm lý Giáo dục, Viện Đại học Vạn Hạnh, tham gia giảng dạy và đóng góp cho tạp chí Tư Tưởng, Vạn Hạnh.
Từ tháng 4-1977 đến tháng 9-1984, Hòa thượng được mời phụ tá Hòa thượng Thích Minh Châu, Viện trưởng Viện Phật học Vạn Hạnh, TP.Hồ Chí Minh, và làm giảng sư tại Viện, đồng thời tham gia giảng dạy chương trình cao cấp Phật học tại Già Lam. Trong khoảng thời gian này, Hòa thượng đã nghiên cứu và biên soạn nhiều tác phẩm Phật học có giá trị trong lãnh vực học thuật và hành trì cho Tăng Ni và Phật tử.
Từ tháng 10-1984 đến năm 1988, Hòa thượng là giảng sư tại chùa Linh Sơn, TP.Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Trong thời gian làm Phật sự tại đây, pháp âm của Hòa thượng được ghi lại, trở thành định hướng tu tập cho rất nhiều giới trong và ngoài nước. Tại đây, Hòa thượng tiếp tục biên soạn một số tác phẩm Phật học có giá trị.
Từ năm 1988 đến tháng 7-1992, Hòa thượng được mời phụ tá Viện trưởng kiêm Trưởng ban Học vụ, đồng thời tham gia giảng dạy tại Trường Cao cấp Phật học Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh (nay là Học viện Phật giáo VN tại TP.Hồ Chí Minh). Trong khoảng thời gian này, Hòa thượng là thành viên Ban Giám hiệu, đóng góp rất lớn vào việc biên soạn chương trình giáo dục Tăng Ni các cấp.
Từ tháng 8-1992 đến tháng 6-1996, Hòa thượng được cử sang du học tại Đại học Delhi - Ấn Độ theo học bổng của Bộ Ngoại giao, Chính phủ Ấn Độ, tốt nghiệp phó tiến sĩ và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Phật học. Với luận án xuất sắc - Lý thuyết Nhân tính qua Kinh tạng Pali (The Concept of Personality Revealed through Panca Nikayas), Hòa thượng được Hội đồng Khoa học Đại học Delhi phê chuẩn học vị tiến sĩ Triết học, được Ủy ban Phát triển Nguồn nhân lực Ấn Độ (Human Resources Development Communitiy) đánh giá cao và được Tổng thống Ấn Độ mời tiếp kiến và ngợi khen.
Từ tháng 7-1996 đến tháng 5-2002, Hòa thượng được mời giữ chức vụ Phó Viện trưởng Thường trực Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam; Phó Viện trưởng Thường trực Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh; Trưởng ban Phật giáo Quốc tế T.Ư GHPGVN; Phó ban Thường trực và Quyền Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni T.Ư GHPGVN; là thành viên sáng lập và Trưởng ban Thư ký Hội đồng Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam.
Từ tháng 6-2002 đến tháng 11-2016, Hòa thượng được mời tham gia Đại biểu Quốc hội liên tiếp các khóa XI đến XIV; đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Việt Nam; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng thời gian này, Hòa thượng đảm nhiệm Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni T.Ư GHPGVN; Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
Từ tháng 12-2007, Hòa thượng được suy cử Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Từ tháng 3-2008, Hòa thượng được mời giữ chức vụ Tổng Biên tập Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo.
Từ tháng 7-2015, Hòa thượng được suy tôn ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
Sau ngày Hòa thượng pháp huynh viên tịch, Hòa thượng được cung thỉnh làm viện chủ thiền viện Vạn Hạnh, TP.Hồ Chí Minh và sau đó được tông môn pháp phái thỉnh vào ngôi vị trú trì tổ đình Tường Vân, TP.Huế.
Trong sự nghiệp tu học của mình, Hòa thượng đã đóng góp rất lớn cho sự ổn định và phát triển của Giáo hội, thể hiện qua việc định hướng và xây dựng Giáo hội vững mạnh.
Hòa thượng còn tiêu biểu cho tiếng nói trí tuệ của một bậc chân nhân, thể hiện qua một số công trình nghiên cứu và dịch thuật giá trị, trở thành nguồn tài liệu căn bản cho việc tham cứu học tập và giảng dạy tại các cấp Phật học, cho việc thuyết giảng Phật pháp ở các tỉnh thành, đặc biệt cho việc vận dụng Phật pháp một cách sáng suốt và có hiệu quả nhằm đáp ứng cho các thách thức mang tính thời đại. Các công trình nghiên cứu và dịch thuật Hòa thượng để lại gồm:
I. Nghiên cứu biên soạn: (1) Phật học khái luận, (2) Tăng-già thời Đức Phật, (3). Tư tưởng kinh Pháp hoa, (4) Tư tưởng kinh Kim cang, (5) Tư tưởng kinh Địa Tạng, (6) Tư tưởng kinh Di Đà, (7) Những hạt sương, (8) Hoa ngọc lan, (9) Tư tưởng Việt Nam, (10) Bàn về Tây du ký của Ngô Thừa Ân, (11) The Concept of Personality Revealed Through the Panca Nikayas, (12) Tìm hiểu Trung bộ kinh, (13) Tìm vào thực tại, (14) Giáo lý Duyên khởi, (15) Hương còn mãi, (16) Tiếng hót Ca-lăng-tần-già, (17) Trí tuệ và Chân thành, (18) Tư tưởng Việt Nam: Nhân bản thực tại luận.
II. Biên dịch: (1) Nghiên cứu kinh Lăng-già (đồng dịch giả), (2) Lăng-già Đại thừa kinh (đồng dịch giả), (3) Lý thuyết Nhân tính qua Kinh tạng Nikayas, (4) Satipatthana - Trái tim thiền định của Phật giáo (The Heart of Buddhist Meditation), (5) Tìm hiểu đạo Phật (Buddhism Explained).
Thuận theo quy luật vô thường, vào lúc 10 giờ 50 phút ngày 8-11-2016, nhằm ngày 9-10 năm Bính Thân, Phật lịch 2560, Hòa thượng xả báo thân, an nhiên thị tịch tại tổ đình Tường Vân, để lại bao nỗi niềm kính tiếc cho GHPGVN, cho đất nước, cho tông môn Tường Vân, chư Tăng Ni và đạo hữu Phật tử các giới.