nguoiphattu.com Tự nhận mình đơn thuần là một con người, không tự nhận mình là thần linh hay hoá thân của thần linh. Mặc dù đức Phật có được lục thông, tam minh, 10 như lai lực nhưng rất ít khi phô diễn.
Phật
là tiếng xưng hô đơn giản nhưng lại bao hàm ý nghĩa về nhân cách. Đức
Phật vốn tên là Tất-đạt-đa, họ là Gô-ta-ma, sau khi xuất gia tu hành
được mọi người gọi là Thích-ca-mâu-ni, nghĩa là Thích ca tộc ẩn. Sau khi
giác ngộ, mọi người gọi là Phật-đà gọi tắt là Phật có nghĩa là người
giác ngộ chân lý. Như vậy, Phật chỉ là tên gọi chung những người đã giác
ngộ.
Người
người đều có thể thành Phật, ở đâu cũng có Phật, không phải chỉ thế
giới này mới có Phật mà vô số các tinh cầu trong vũ trụ đều có thể có
Phật (đương nhiên có cả chúng sinh)
Phật và chúng sinh đều là
những người bình thường. Phật có thể tu hành ngộ đạo thì ngàn vạn chúng
sinh cũng có thể tu hành ngộ đạo (tức là ngộ ra đại đạo nhân sinh trong
vũ trụ)
Lục tổ Huệ Năng giải thích Phật qua câu trả lời : “Vô
Phật, vô tổ, Đạt-ma là miếng thịt thối, Thích ca Mâu-ni, một nắm phân
khô, Văn Thù, Phổ Hiền là kẻ gánh phân”
Mới nghe câu trả lời, ai
cũng nghĩ Huệ Năng chẳng biết trời cao đất dày là gi, dám phủ định Phật.
Nhưng chính câu trả lời phản ánh một người thấu triệt, lĩnh hội cái
huyền cơ của Phật tính (bản tâm là Phật, bản tính cũng là Phật), mục đích là để ai nấy hiểu rằng mình có thể thành PHẬT.
Đức Phật: người thầy, còn thầy thế nào là nhờ bạn đánh giá dùm.
Đây
chỉ là một người thầy dạy cách diệt trừ lậu hoặc cho loài người. Kinh
thứ 12, Lohicca, thuộc Trường Bộ kinh, cho biết có 3 hạng đạo sư đáng bị
khiển trách là:
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, lại còn để cho học trò không chú tâm học hỏi, sống phóng dật.
-
Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, học trò có chú tâm học
hỏi nhưng lại sống trái ngược với giáo pháp giảng dạy.
- Đạo
sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, học trò chú tâm học hỏi
nhưng lại không sống theo những điều đã nghe thuyết giảng.
Đức
Phật tự nhận mình là một đạo sư không đáng bị chỉ trích hay bị khiển
trách vì đã thành tựu quả vị A-la-hán, các đệ tử của Ngài đều chú tâm
học hỏi và thực hành giới định tuệ hướng đến kết quả thù thắng của hạnh
sa môn.
Kinh thứ 12, Đại sư tử hống, thuộc Trung Bộ kinh viết về các năng lực và trí tuệ siêu phàm của đức Phật như sau:
- Sa môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy có khả năng hướng thượng, dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
- Ngài có đầy đủ khả năng siêu việt như lục thông, tam minh. Ngài có đầy đủ 10 như lai lực là:
1. Biết rõ xứ và phi xứ 2. Biết rõ quả báo tuỳ thuộc nhân duyên các nghiệp quá khứ, hiện tại và vị lai. 3. Biết rõ con đường đưa đến các cảnh giới. 4. Biết rõ thế giới với nhiều cảnh giới, nhiều chủng loại, nhiều căn tánh khác nhau. 5. Biết rõ chí hướng sai biệt của các chúng sanh. 6. Biết rõ căn tánh cao thấp của con người và các loài hữu tình. 7. Biết rõ sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh và sự xuất ly về thiền, giải thoát và định. 8. Thành tựu túc mạng minh nhớ đến nhiều kiếp quá khứ. 9. Thành tựu thiên nhãn minh thấy rõ quả báo tái sanh khác nhau của các loài chúng sinh tuỳ thuộc nghiệp lực. 10. Thành tựu lậu tận minh thấy rõ bốn thánh đế và các lậu hoăc, hướng đến giải thoát và giải thoát tri kiến.
Đức
Phật là người bằng xương bằng thịt duy nhất trên thế gian này biết cách
khám phá thế giới bên trong. Trong hơn 45 năm thuyết giảng độ chúng
sinh, Ngài đã dạy cho hàng vạn người tự mình giải thoát mình ra khỏi
phiền não, khổ đau và sợ hải để lại cho đời những pháp môn chuyển hoá
một con người bình thường trở thành người siêu phàm với các lục thông,
tam minh khiến nhiều người coi là thần thánh. Chính đức Phật cũng bị coi
là thần thánh, điều mà lúc sinh thời, Ngài triệt để bác bỏ.
Kinh Giáo huấn vắn tắc của Phật lúc sắp nhập diệt do Hoà thượng Trí Quang dịch là một phần trong bộ Kinh Nguyên thuỷ đã viết:
“Trong
rừng sala, giữa cây song thọ, đức Phật sắp nhập diệt, Ngài đã vì đệ tử
mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp: “Này các tỳ kheo, sau
khi Như Lai diệt độ, các thầy phải tôn kính tịnh giới như mù tối mà được
sáng mắt…Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Đã ở trong tịnh
giới thì phải chế ngự 5 thứ giác quan, không cho phóng túng vào 5 thứ
dục lạc. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát nên Như Lai
mệnh danh là Ba-la-đề-mộc-xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định và nhờ
giới mà trí tuệ có năng lực huỷ diệt thống khổ. Thế nên, các thầy tỳ
kheo hãy giữ tịnh giới đừng cho vi phạm thiếu sót… Năm thứ giác quan
do tâm chủ động vì vậy mà các thầy phải thận trọng chế ngự tâm mình…hãy
nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình”.
Các thầy tỳ kheo thọ
dụng đồ ăn thức uống hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở
không bỏ, vừa đủ duy trì cho khỏi đói khát…Ban ngày thì nỗ lực thực tập
thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, nữa đêm lại phải tụng niệm để
tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để
đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi”.
Này các thầy tỳ
kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự
kềm chế tâm mình đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để
phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dử nổi lên là tự hại đạo nghiệp,
hư mất công đức. Thực hành đức nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng
nhân có sức mạnh… Các
thầy tỳ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều thì nhiều sự cầu lợi nên khổ
não cũng nhiều…Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thãn, không
lo sợ thiếu thốn.
Muốn giải thoát khổ não thì các thầy phải biết vừa đủ. Không biết vừa đủ thì bị 5 thứ dục lạc lôi kéo.
Muốn cầu yên tỉnh vô vi và an lạc, các thầy hãy ở đơn độc và ở một cách thư thái và thanh vắng.
Này
các thầy tỳ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở
trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ
trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến nỗ lực thực tập thiền
định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì hãy đắp đê sửa
bờ cho khéo, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó
khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.
Này các thầy tỳ kheo, có
trí tụê thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để
lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như Lai, người
ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền
vững chắc nhất vượt biển sinh lão bệnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với
hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bệnh tật, là búa sắc chặc cây
phiền não…
Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc, còn
uống hay không, không phải lỗi của lương y, lại như người dẫn đường rất
tốt, chỉ dẫn đường lối cho người, nhưng thấy rồi mà không đi thì không
phải lỗi của người chỉ đường.
Này
các thầy tỳ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào
thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cần
giải đáp. Thế Tôn nói lên 3 lần như vậy nhưng không ai chất vấn vì lẽ
chư tăng không có ai hoài nghi nữa.
Này các thầy tỳ kheo, chánh
pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ, Như Lai sống cho lâu cũng không còn
ích lợi gì nữa. Từ nay về sau, đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực
hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trụ bất diệt. Thế nên, các
Thầy tỳ kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có
kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả.
Cuộc
đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tiến để đem ánh sáng trí tuệ
diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi
bền bỉ. Như Lai diệt độ thì cũng như trừ được vật tội ác và đáng bỏ,
giả hiệu, như thế người có trí tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được
thân này. Thôi các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa, thì giờ sắp
hết. Như Lai muốn diệt độ.”
Lời trăn trối sau cùng nào cũng là
lời di huấn đầy lòng nhân ái huống chi người đó lại là đức Phật. Bạn hãy
đọc lại một lần nữa đi: chánh pháp tự lợi, lợi tha đã có đầy đủ, coi
chừng lấy tà pháp làm chánh pháp.
Bốn chân lý hay “tứ diệu đế”
hay “tứ thánh đế” được nói đến sau cùng và được nhắc đến 3 lần cho thấy
tầm quan trọng của giáo pháp này trong việc tu tập. Đây là chìa khoá mở
cánh cữa đi vào thế giới bên trong mà bát chánh đạo thuộc chân lý thứ tư
<đạo đế> là kim chỉ nam giúp mỗi người tự mình làm ngọn đèn cho
chính mình, tự mình y tựa nơi mình, không nương tựa vào bất cứ gì để tự
giải thoát lậu hoặc. Phải hiểu rõ từng câu, từng chữ ý nghỉa của bốn
chân lý thì mới tu tập có được tự lợi, lợi tha.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC PHẬT Thế giới ngày nay thường xuyên sống trong lo sợ do hận thù giữa các quan điểm (ý thức hệ) tôn giáo và chính trị mà không hoá giải được. Vũ khí sản xuất ra đủ để gây ra sự huỷ diệt cả nhân loại.
Phật nói: “Hận thù vĩnh viễn không hoá giải được hận thù, chỉ có nhân ái mới có thể hoá giải hận thù”. Phật
lại nói: “Nên lấy từ bi ân huệ để chiến thắng ghen ghét tức giận, lấy
thiện thắng ác, lấy bố thí thắng tư lợi, lấy chân thực thắng giả dối. Kẻ
chiến thắng nuôi dưỡng hận thù, kẻ chiến bại sụp đổ trong đau khổ. Cả
thắng, bại đều biến mất thì con người mới được hạnh phúc”.
Về lợi
ích kinh tế xã hội của Phật tử, Phật giáo không lấy đời sống khá giả
làm mục đích của nhân sinh mà chỉ là phương tiện làm cho nhân loại được
hạnh phúc. Muốn tu tập thành công thì vẫn cần thiết phải có một hoàn
cảnh vật chất tối thiểu.
Kinh Pháp cú có ghi chép những ý kiến
của đức Phật về đạo đức của người cai trị đất nước rất có ích lợi cho
hạnh phúc nhân dân. Một bô máy hành chính thối nát bất công thì cả quốc
gia từ quan đến dân cũng theo đó mà thối nát truỵ lạc, mất đi niềm hạnh
phúc.
Khi trình bày bất kỳ một quan điểm nào, bạn luôn bị rơi
vào ý thức hệ bởi vì bạn còn bản ngã. Chỉ khi diệt được ngã, vô ngã, bạn
không còn vướng bận bất cứ gì, lúc đó mọi lời nói việc làm, suy nghĩ
của bạn không dẫn con người đi ra thế giới bên ngoài, bạn mới không rơi
vào ý thức hệ. Đó là quan điểm của đức Phật, vượt lên trên ý thức hệ.
Các tôn giáo đều hữu thần, chỉ riêng đạo Phật là đạo vô thần hay nói
đúng nghỉa thì đạo phật không phải là một tôn giáo vì không có ý thức
hệ.
Quan điểm của đức Phật là:*Tự nhận mình đơn thuần là một con người, không tự nhận mình là thần linh hay hoá thân của thần linh. Mặc dù đức Phật có được lục thông, tam minh, 10 như lai lực nhưng rất ít khi phô diễn. Kinh
thứ 24, kinh Ba-lê thuộc Trường Bộ kinh viết: “sự thành tựu thần thông
hay hiểu biết về khởi nguyên thế giới không phải là mục tiêu của việc tu
hành, không đưa đến an tịnh, không giải thoát lậu hoặc”
Hầu hết
các giáo chủ của các tôn giáo thần học đều thích phô trương những năng
lực hơn người tương tợ như những nhà ảo thuật, như những nhà tiên tri
tiên đoán nhiều chuyện kinh thiên động địa, tạo dựng vũ trụ và thế gian,
rồi bị khoa học, bị thời gian minh chứng chỉ là trò bịp bợm của thần
thánh giả hiệu.
*Coi sự giác ngộ thành tựu và sự nghiệp của mình hoàn toàn do công cố gắng và tài trí của con người. Chỉ
cần quyết tâm, mỗi con người đều có thể trở thành Phật. Kinh thứ 25,
Ưu-đàm-bà-la Sư tử hống, thuộc Trường bộ kinh viết: “người có trí hãy
đến đây, trung thực không lừa đão, ta sẽ huấn dạy, ta sẽ thuyết pháp.
Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự biết mình và chứng
ngộ ngay trong đời sống hiện tiền”.
*Con người là chủ thể của chính mình, không có một sức mạnh nào cao cấp hơn có thể quyết định số phận của con người. Bạn
sắp chết, sắp thở hơi thở cuối cùng thế mà các triết gia, tư tưởng gia
đòi bạn trả lời câu hỏi của chúng. Nạn nhân hấp hối của một tai nạn, một
tử tù tới giờ hành quyết, vậy mà cũng hỏi: “Con có tin vào đức Chúa
cha, đức Chúa con và đức Chúa thánh thần hay không?” hoặc là: “hãy niệm
Phật A-di-đà để được về cỏi Tây phương cực lạc”. Đặt ra những vấn đề
không thể giải quyết chỉ làm mất thời giờ và sức lực một cách vô bỗ, ngu
ngốc.
Các triết gia đặt ra rồi tự trả lời những vấn đề vô bổ như
thế! Bạn có nghe hay không là tuỳ bạn. Điều đáng làm của bạn là cố gắng
hiểu biết chính con người bạn, gọi là “khoa học về chủ thể”.
Kinh
thứ 16, Đại bát niết bàn viết: “Này A-nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác.
Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa.”
*Với
nguyên tắc tự mình chịu trách nhiệm với mình, đức Phật cho phép các đệ
tử của Ngài được tự do tư tưởng, đó là điều chưa từng thấy trong lịch sử
các tôn giáo. Sự tự do đó hoàn toàn rất cần thiết vì sự giải thoát hoàn
toàn trông cậy vào sự giác ngộ chân lý của mỗi người chứ không phải nhờ
vào sự giúp đở nào của thần linh.
*Trong Phật giáo không có sự
tin tưởng mù quáng. Đức Phật nhiều lần nói với các tỳ kheo rằng: “Các
đệ tử hãy suy xét cho kỹ bản thân Như Lai. Có như thế, đệ tử mới thật sự
tin tưởng giá trị chân chính của người thầy mà các người đi theo”
*Trong
Phật giáo không có quan niệm là tội như trong các tôn giáo khác. Hết
thảy mọi ác pháp đều do vô minh hay tà kiến gây nên. Tu hành chỉ là
“minh sanh, vô minh diệt” là để biết rõ phải trái, thiện ác rồi thực
hành ly dục, ly ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện tức là học và làm
theo bát chánh đạo. Vì không có quan niệm tội nên địa ngục trong đạo
Phật không phải là nhà tù với những hình phạt khủng khiếp như theo ý
nghĩ của một số người.
*Cần phải có sự hiểu biết chính xác rõ
ràng để tuyệt đối không còn nghi ngờ. Chỉ mấy phút trước khi nhập diệt,
Ngài vẫn yêu cầu các đệ tử nếu có điều gì còn nghi ngờ thì cứ nêu lên để
hỏi chớ để về sau phải hối tiếc là Ngài chưa làm sáng tỏ vấn đề.
*Tấm
lòng độ lượng rộng lớn của Ngài đặc biệt khiến cho những người nghiên
cứu lịch sử Phật giáo phải kinh ngạc. Có một lần Upali là đệ tử kiệt
xuất của giáo chủ Ma-ha-tì-la, được đề cữ yết kiến đức Phật để tranh
luận về nghiệp báo với quyết tâm muốn đánh bại Phật. Nhưng thật bất ngờ,
kết quả của cuộc tranh luận, Upali tin tưởng rằng quan điểm của Phật
là đúng, còn cách nhìn của Thầy mình là sai. Vì thế Upali xin Phật thu
nhận cho ông ta được làm đệ tử nhưng Phật bảo Upali không nên quyết định
vội vàng mà nên suy nghĩ thận trọng. Đến khi Upali khẩn khoản bày tỏ
nguyện vọng của mình thì Phật yêu cầu ông ta hãy tiếp tục cung kính các
Thầy tôn giáo cũ của ông ta như trước. Nếu ngày nay đức Phật còn sống
chắc Ngài cũng đối xử với tín đồ đạo Chúa, đạo Hồi như đã đối với Upali,
không níu kéo các tín đồ của các tôn giáo đó vào đạo Phật.
Truyền
thống tôn trọng các tôn giáo khác đã được các đệ tử của Ngài truyền bá
cho mọi người thực hành, khác với các tôn giáo thần học hiện nay.
Khoảng
thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, vua Asoka (A-dục) tuy theo đạo Phật
nhưng vẫn cho khắc trên vách đá một bản “bố cáo” mà nguyên văn đến nay
vẫn còn trong đó có đoạn: “Không được chỉ coi trọng tôn giáo của mình mà
chê bai khinh rẽ tôn giáo khác.Cần phải theo đạo lý mà tôn trọng các
tôn giáo khác. Làm như thế không những có thể giúp tôn giáo mình được
lớn mạnh, đồng thời cũng làm tròn nghĩa vụ đối với các tôn giáo khác.
Mọi người hãy lắng nghe và vui lòng lắng nghe giáo nghĩa của các tôn
giáo khác”
Tinh thần khoan dung hiểu biết đó là một trong những lý tưởng được trân trọng trong nền văn hoá văn minh Phật giáo.
Vì
vậy trong suốt thời gian hơn 2500 năm của lịch sử Phật giáo, không ở
đâu tìm ra một dẫn chứng về việc đạo Phật bức hại các tôn giáo khác. Tất
cả mọi hình thức bạo lực bất kể nấp dưới chiêu bài gì đều tuyệt đối
trái ngược với những lời khuyên dạy của đức Phật
*Người
Phật giáo là những con người đi tìm chân lý nên không cần biết giáo
nghĩa ấy do Phật nói ra hay do người nào đó nói ra miển là lời nói ấy là
chân lý. Một hôm Phật nghĩ đêm trong cái láng lò gốm gặp một người xuất
gia trẻ tuổi, Ngài lên tiếng hỏi:
-Này vị thầy tỳ kheo, thầy xuất gia dưới danh nghĩa của giáo chủ nào? Chẳng hay đạo sư của thầy là ai?
-Thưa
bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ tuổi đáp, có một vị hậu duệ của dòng họ Thích
đã rời bỏ gia tộc để làm người xuất gia, nghe nói người đã tu hành đắc
quả, đó là một bậc tôn giả giác hạnh tròn đầy, tôi xuất gia dưới tên của
bậc Thế Tôn đó. Vị ấy chính là sư phụ tôi.
-Vị Thế Tôn giác hạnh tròn đầy ấy hiện giờ ở đâu? Phật hỏi tiếp
-Thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ đáp, ở quốc độ phía bắc có một đô thành tên là Xá vệ, Vị Thế Tôn đang trụ túc tại đó.
-Tỳ kheo đã gặp vị Thế Tôn ấy chưa? Nếu thấy Ngài, tỳ kheo có nhận ra không?
-Tôi chưa hề được gặp vị Thế Tôn đó. Giả sử nếu có thấy Ngài tôi cũng không thể nhận ra.
Phật biết người trẻ tuổi này xuất gia tu hành theo danh nghĩa của mình, nhưng Phật không để lộ tung tích. Ngài nói:
-Này tỳ kheo, ta sẽ đem Giáo pháp truyền thụ cho ngươi. Ngươi có chịu lắng nghe không?
-Tốt lắm, thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ đáp.
Thế
là Phật giảng cho người trẻ tuổi ấy nghe Kinh phân biệt lục giới. Sau
khi nghe giảng xong trọn vẹn bộ kinh này, người trẻ tuổi tên là
Phất-gia-xá mới rạng rở tỉnh ngộ, hiểu ra rằng người đang thuyết giảng
cho mình chính là đức Phật, liền đứng dậy chạy đến sụp lạy dưới chân đức
Phật tạ lổi vì mình đã gọi đức Thế Tôn là bạn đồng tu. Câu chuyện này
nói lên rõ ràng rằng Phất-gia-xá chỉ cần được nghe giáo pháp còn người
thuyết pháp là ai không quan trọng. Chỉ cần thuốc tốt chữa khỏi bệnh,
còn người bốc thuốc là ai và từ đâu đến biết hay không biết là điều
không quan trọng.
*Đức tin trong đạo Phật phải gắn liền với “tri
kiến”. Nếu tôi nói với bạn trong lòng bàn tay tôi có một viên đá quý thì
bạn nãy sinh vấn đề tin hay không tin lời nói đó của tôi, là bởi vì bạn
chỉ nghe mà chưa thấy nhưng đến khi tôi xoè bàn tay để cho bạn thấy
viên đá quý ấy thì vấn đề nghi ngờ không tồn tại nữa. Lòng tin ở Phật
giáo không thể mơ hồ. Phật giáo luôn luôn quan niệm rằng do trí tuệ mà
đạt được chánh kiến chớ không phải do niềm tin mù quáng mà sinh ra tín
ngưỡng.
*Các pháp của đức Phật đều thiết thực nhằm mục đích tháo
gở những chướng ngại, vướng mắc trong cuộc sống, ví như chiếc bè gổ chở
người ta qua sông. Ngài nói: Này các tỳ kheo, có một người lữ hành trên
đường đi có một con sông lớn chắn ngang. Nếu ở lại bờ bên này thì sẽ gặp
rất nhiều nguy hiểm, còn ở bờ bên kia thì rất an toàn. Người ấy nghĩ:
muốn qua sông mà không có thuyền cũng chẳng có cầu, ta đành phải đi nhặt
cành cây, rơm cỏ kết lại thành chiếc bè, phải mau chân, mau tay gắng
sức làm mới được. Có được chiếc bè, anh ta chỉ trông cậy vào sức lực tay
chân của mình là có thể an toàn qua được bờ bên kia. Anh ta lại nghĩ:
cái bè này giúp ích rất lớn cho ta, ta phải đội nó lên đầu hay vác trên
vai mà đưa nó đi theo cùng ta”.
Theo ý các ngươi, người lữ hành nghĩ như thế có thích đáng không?
-Thưa Thế Tôn, xử trí như thế là không thích đáng ạ!
-Vậy
phải xử trí như thế nào mới thích đáng? Nếu người ấy suy nghĩ thế này:
“cái bè này đã giúp ta qua được con sông, ta hãy kéo nó lên bờ hoặc cứ
để mặc nó nổi trên mặt sông, còn ta vẫn tiếp tục cuộc hành trình”. Này
các tỳ kheo, các Pháp ta dạy cho các ông cũng như chiếc bè ấy vậy.
Có
một lần, đức Phật nhặt mấy chiếc lá để trong lòng bàn tay rồi nói các
đệ tử rằng: Các pháp sở tri mà ta đem giảng cho các ông cũng chỉ rất ít
ỏi như số lá trong tay ta. Những pháp sở tri khác ta chưa nói thì còn
rất nhiều như số lá cây trong rừng. Nhưng tại sao ta không nói hết các
pháp ấy cho các ngươi nghe? Đó là vì những pháp ấy không cần dùng đến,
không có khả năng dẫn dắt người ta đến Niết bàn. Đó là nguyên nhân khiến
ta không giảng hết những pháp ấy cho các ngươi nghe.
*Đức Phật hoàn toàn không bàn tới vấn đề siêu hình.Đặc
biệt kinh luận phát triển do nhu cầu được giải đáp những thắc mắc siêu
hình mà sinh thời, dù đầy đủ tam minh, đức Phật bỏ qua không nói đến.
Đến khi viết Kinh, các nhà ghi chép tự tiện thêm vào những truyền thuyết
huyễn hoặc, những chuyện siêu hình, những tranh luận thô thiễn gọi là
hý luận hay lý giải những bí ẫn thâm sâu về sự sống, cái chết:
Tôi từ đâu đến nào ai biết? Tôi đến nơi nào ai có hay? (Quỳnh Dao)
Một đệ tử Phật có tên gọi là Mạn-đồng-tử đến chỗ Phật ở thưa rằng:
-Bạch
Thế Tôn con có một số vấn đề xin được Thế Tôn giải thích. Đó là: vũ trụ
vỉnh hằng hay không vĩnh hằng, là hữu hạn hay vô hạn? Thân và tâm ta
cùng là một vật hay thân là một vật còn tâm là một vật khác? Như Lai sau
khi chết vẫn tồn tại hay không tồn tại…Nếu Thế Tôn giải thích cho con
nghe thì con xin tiếp tục tu tập phạm hạnh dưới pháp toạ của người. Nếu
Thế Tôn không giải thích cho con nghe thì con xin rời khỏi tăng đoàn đi
nơi khác. Nếu Thế Tôn không biết thì xin cứ nói thẳng ra là “ta không
biết”. Câu trả lời của Phật đối với câu hỏi của Mạn-đồng-tử có ích
rất lớn cho những ai đem thời gian quý báu của đời người lãng phí vào
những vấn đề siêu hình hoàn toàn không cần thiết, chỉ để tự mình làm
nhiểu loạn tâm mình. Lúc bấy giờ, đức Phật hỏi lại Mạn-đồng-tử:
-Từ
trước tới nay ta đã bao giờ bảo với ngươi hãy đến đây, ngồi dưới pháp
toạ của ta, ta sẽ giải đáp những câu hỏi kia hay không?
-Thưa Thế Tôn chưa bao giờ Người nói câu ấy.
-Này
Mạn-đồng-tử, nếu như có một người bị mủi tên độc bắn bị thương được đem
đến thầy thuốc. Giả sử lúc ấy anh ta nói: “tôi chưa muốn nhổ mủi tên
độc này trừ phi thầy thuốc nói cho tôi biết ai là kẽ đã bắn tôi, hắn
thuộc đẳng cấp Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn, họ tên bộ tộc hắn là gì…Anh
chàng kia chắc chắn sẽ phải chết mà không nhận được câu trả lời của thầy
thuốc.
Nếu như có người nói: “tôi không ngồi dưới pháp toạ của
Thế Tôn để tu tập phạm hạnh nữa, trừ phi Thế Tôn giải thích những vấn đề
như vũ trụ vĩnh hằng cho tôi nghe”. Ngưới ấy cũng phải chết trước khi
nghe được lời giải đáp của Như Lai.
Tiếp đó đức Phật giảng cho
Mạn-đồng-tử hiểu rõ phạm hạnh chẳng liên quan gì đến những loại kiến
giải siêu hình. Vấn đề ở thế gian này là phiền não, khổ đau và sợ hãi,
những lời giáo huấn của Ta có khả năng trừ diệt nó. Chính vì thế, ngươi
phải ghi nhớ rằng những gì cần giải thích thì đã giải thích rồi. Những
gì chưa giải thích tức là không bao giờ giải thích. Ta còn chưa giải
thích những gì? Đó là những câu hỏi như vũ trụ vĩnh hằng hay không vỉnh
hằng…Đó là 10 câu hỏi thuộc vào loại ta không giải đáp.
Mạn-đồng-tử,
tại sao ta không giải đáp những câu hỏi đó? Bởi vì những câu hỏi nêu ra
đó chẳng có ích lợi gì. Nó chẳng có mối quan hệ cơ bản nào với phạm
hạnh tu luyện thân tâm. Nó không làm cho người ta đoạn trừ được lậu
hoặc.