;
Mộc nhĩ (Auricularia polytricha (Mont.) Sacc.) thuộc họ mộc nhĩ (Auriculariaceve), tên khác là mộc nhĩ đen, mộc nhĩ lông, nấm tai mèo. Trong 100g mộc nhĩ, có 10,6g protid, 0,2g lipid, 65g glucid, 63mg Na, 856mg K, 357mg Ca, 56,1mg Fe, 201mg P, 20mcg beta-caroten, 0,14mg vitamin B1, 0,55mg vitamin B2, 2,7mg vitamin PP và cung cấp cho cơ thể 312 calo.
Từ lâu đời, mộc nhĩ đã được dùng làm thuốc chữa bệnh. Dược liệu có vị ngọt, mát, tính bình, có tác dụng lương huyết, chỉ huyết, ích khí, giải độc, làm săn se. Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng mộc nhĩ ở cây dâu sao khô, tán bột, uống với liều 16g chữa băng huyết, rong kinh, vết máu thâm đen trên mặt; nếu đốt tồn tính, mỗi lần uống 2g với rượu lại chữa đau dữ dội ở vùng thượng vị hoặc giã nhỏ, tẩm mật, ngậm chữa viêm họng. Mộc nhĩ cây hòe đốt tồn tính, tán nhỏ, uống 8g với nước nóng vào lúc đói để tẩy sán. Mộc nhĩ và kinh giới với lượng bằng nhau, sắc lấy nước đặc, ngậm súc để chữa các chứng đau ở răng, miệng. Mộc nhĩ và mộc tặc tán nhỏ, mỗi lần uống 8g với nước gạo đun sôi chữa chứng chảy nước mắt liên tục.
Theo kinh nghiệm dân gian, mộc nhĩ được dùng trong những trường hợp sau: Dùng riêng, mộc nhĩ phơi khô, rang cháy, tán bột, mỗi lần uống 3 - 6g với nước rau muống ép càng đặc càng tốt, ngày 2 lần, chữa ngộ độc nấm. Dùng phối hợp, chữa kiết lỵ: mộc nhĩ 20g, núm quả chuối tiêu 10g, lá dạ cẩm 10g, lá mã đề 10g, phơi khô, thái nhỏ, sao vàng, hạ thổ rồi sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Chữa băng huyết, rong kinh: mộc nhĩ 100g, hấp cách thủy cho chín, phơi hoặc sấy khô, tán bột mịn, cây cứt lợn (loại hoa tím) 50g, lá ngải cứu 30g, thái nhỏ, phơi khô, tán bột mịn. Trộn đều 2 bột, luyện với mật ong làm viên 15g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 viên với nước chè nóng (kinh nghiệm của Trường Lâm nghiệp - Sông Bé). Chữa vết thương lở loét: mộc nhĩ và vỏ quả bí đỏ, lượng mỗi thứ 50 - 100g, phơi khô, đốt thành than, dùng rắc 2 - 3 lần trong ngày. Thuốc có tác dụng làm khô nhanh, sạch nước vàng, không có mùi hôi.
Theo tài liệu nước ngoài, mộc nhĩ 30g, ngâm nước trong một đêm, rồi hấp chín với đường phèn trong 1 - 2 giờ, ăn trước khi đi ngủ là thuốc hạ huyết áp, phòng ngừa bệnh xơ vữa động mạch.
Trong y học cổ truyền và dân gian, còn có mộc nhĩ trắng hay ngân nhĩ (Tremella Fuciformis Berk) thuộc họ Ngân nhĩ (Tremellaceae) cũng là loại nấm ăn được và làm thuốc. Trong 100g mộc nhĩ trắng có 5g protid, 0,6g lipid, 79g glucid, các polysaccharid và nhiều loại acid amin. Tác dụng của mộc nhĩ trắng là bổ thận, bổ khí, tráng dương, cường tinh, nhuận tràng. Đặc biệt là chất polysaccharid có khả năng tăng cường miễn dịch trong cơ thể người để chống chất phóng xạ và ức chế khối u. Có thể dùng mộc nhĩ trắng 30g nấu chín, thêm cao ban long 7g và đường phèn 15g, khuấy tan, để nguội rồi uống làm nhiều lần trong ngày để chữa bệnh liệt dương.
Nấm hương (Lentinus edodes (Burki.) Sing.) thuộc họ nấm tán (Agaricaceae), tên khác là hương đàm, hương cô, người Tày gọi là bioóc hom. Trong 100g nấm hương khô có 36g protid, 23,5g glucid, 4g lipid; các polysaccharid lentinan, lentysin; các acid amin cần thiết là cystin, histidin, arginin, alanin, tryptophan, lencin, valin, phenylalanin, acid glutamic; các nguyên tố vi lượng Ca, P, sắt; các vitamin A, B1, B2, C, acid nicotinic; đặc biệt là chất tạo mùi thơm đặc trưng của nấm là matsutakeol. Do đó, từ xa xưa, nấm hương đã được mệnh danh là "Vua của các loại nấm".
Các nhà khoa học đã chứng minh nấm hương có các tác dụng quý sau:
Tác dụng hạ lipid máu: Lentysin chiết được từ nấm bằng đường uống với liều 150 - 300mg/kg sau 15 tuần, hàm lượng friglycerid, phospholipid, lipid toàn phần trong máu đều giảm.
Tác dụng chống ung thư: Lentinan trong nấm bằng đường tiêm với liều 25mg/kg trong 10 ngày liên tục, làm ức chế sự sinh trưởng của tế bào ung thư. Dùng liều cao, các tế bào ung thư hoàn toàn bị hủy diệt. Thuốc đã được một số nước dùng chống ung thư, đặc biệt là ung thư dạ dày.
Y học hiện đại coi nấm hương như một nguồn bổ sung đáng kể lượng vitamin D2 để phòng và chống bệnh còi xương, trị chứng thiếu máu. Đó là do chất ergosterol có trong nấm hương, dưới tác dụng của tia cực tím trong ánh nắng mặt trời sẽ chuyển thành vitamin này.
Trong y học cổ truyền, nấm hương có vị ngọt, mùi thơm, tính bình, có tác dụng bổ tỳ, ích khí, dưỡng huyết, chống viêm, chữa cơ thể suy nhược, chứng chân tay tê bại, tổn thương huyết quản, chảy máu chân răng. Liều dùng hàng ngày là 6 - 8g dưới dạng thuốc sắc.
Những nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết có thể triệt được bệnh ung thư ở những người mới mắc nhờ ăn nấm hương đều đặn hằng ngày. Đối với những trường hợp bị ung thư đã được giải quyết bằng phẫu thuật, nếu dùng nấm hương đều đặn sẽ tránh được di căn. Ở Trung Quốc, người ta còn cho rằng ăn nấm hương có thể nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể chống ngộ độc thức ăn, giảm béo, chữa bệnh đái tháo đường, suy nhược thần kinh, lao phổi, viêm gan, gan nhiễm mỡ, béo phì.
Do đó, ở những nước này, người ta khuyên nhân dân thường xuyên ăn nấm hương để bồi bổ sức khỏe, tăng cường thể lực và chống đỡ bệnh tật.
TTƯT.DSCKII. Đỗ Huy Bích