;
Venerable Karma Lekshe Tsomo
Lời giới thiệu của người dịch
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết ngắn phân tích hiện trạng của người nữ tu sĩ Phật giáo trên toàn thế giới. Trong suốt lịch sử nhân loại, vị trí của người phụ nữ luôn bị xếp vào hàng thứ yếu trong xã hội, và người nữ tu sĩ thì "thấp kém" hơn các nam tu sĩ trong lãnh vực tín ngưỡng. Phật giáo cũng không hoàn toàn tránh khỏi ảnh hưởng của tình trạng đó, dù rằng điều này đi ngược lại Giáo Huấn của Đức Phật. Bài này được viết cách nay đã 10 năm, trong khoảng thời gian này nhiều cải thiện đã được thực hiện, thế nhưng dường như vấn đề này vẫn còn là một đề tài nóng bỏng.
Ni sư Karma Lekshe, tác giả bài viết không phải là một phụ nữ xa lạ. Bà là người Mỹ, tiến sĩ triết học, giáo sư tại đại học San Diego giảng dạy về Phật giáo và các tôn giáo khác, tác giả của nhiều chục quyển sách về Phật giáo. Thế nhưng điều đáng để chúng ta ngưỡng mộ và khâm phục hơn nữa là bà là một trong số các nữ tu sĩ Phật giáo đầu tiên được chính thức thụ phong Tỳ kheo ni Tây Tạng, và là đệ tử của các vị Đạt-lai Lạt-ma Gyalwa Karmapa XVI, Geshe Ngawang Dhargyey, và Geshe Rabten, đồng thời bà cũng là đồng chủ tịch và sáng lập viên Hiệp Hội Sakyadhita, nguyên nghĩa là "Những người con gái của Đức Phật", một hiệp hội quốc tế của những người phụ nữ Phật giáo. Ngoài ra bà cũng là sáng lập viên và chủ tịch Quỹ tài trợ Jamyang (Jamyang Foundation) với mục đích giúp người phụ nữ tại các nước đang phát triển được học hành. Có thể liên lạc với bà qua Email: tsomo@sandiego.edu - Phone: (619) 260-4600 x4921 - Office: Univ. of San Diego, Maher Hall 295. Bản chuyển ngữ dưới đây được dựa vào bản gốc tiếng Anh trên trang mạng của những người phụ nữ Phật giáo Âu Châu (http://www.buddhistwomen.eu/EN/index.php/Texts/BuddhistNuns).
Bài viết này cũng đã được dịch sang tiếng Đức (đăng trên một tập san Phật giáo bằng tiếng Đức "Tibet und Buddhismus"/"Tây Tạng và Phật giáo", số 79, tháng 4 năm 2006, của Trung tâm Tây Tạng tại thành phố Hamburg, Đức Quốc), và tiếng Pháp (http://www.buddhistwomen.eu/FR/index.php/Textes/Tibulekshe).
Đây là bài thứ 7 trong loạt bài "Phật giáo và người phụ nữ".
Bài 1: Phật giáo và người phụ nữ: một sự nghịch lý hay mâu thuẫn (Philippe Cornu)
Bài 2: Phụ nữ và nữ tính trong Phật giáo (Dominique Trotignon)
Bài 3: Con đường của sự quyết tâm (Ilan Dubosc)
Bài 4: Tenzin Palmo: Một nữ du-già nơi xứ tuyết (Dominique Dutet)
Bài 5: Phụ nữ và Phật giáo (Gabriela Frey)
Bài 6: Làm mẹ với tấm lòng của Phật (Jaqueline Kramer- Sanitsuda Ekachai)
Bài 7: Người nữ tu sĩ Phật giáo trong thế giới ngày nay (Ven. Karma Lekshe Tsomo)
Ni sư Karma Lekshe Tsomo và hai phụ nữ trong vùng Ladakh trên miền bắc Ấn
***
Người nữ tu sĩ Phật giáo trong thế giới ngày nay
Sự sinh hoạt tập thể trong các tăng đoàn nữ giới phản ảnh một lối sống khá đặc thù trong các xã hội Phật giáo từ những thời kỳ thật xa xưa. Đức Phật Sakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) nêu lên con đường từ bỏ [gia đình] như là một phương pháp hữu hiệu nhất mang lại sự giải thoát, và nhiều người phụ nữ cũng đã bước theo con đường đó, trước hết là mẹ nuôi và cũng là dì của Ngài là bà Mahaprajapati (Ma-ha Bà-xà Ba-đề Cồ-đàm ni). Cũng tương tự như những người từ bỏ [gia đình] khác (thuộc các tín ngưỡng khác) vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, các nam và nữ tu sĩ Phật giáo cũng tự nguyện sống độc thân, tiết dục, đơn sơ, tránh mọi sự bám víu, lánh xa các thú vui trần tục, hầu giúp mình chú tâm hơn vào việc tu tập tâm linh. Một người Phật giáo từ bỏ [gia đình], tách ra khỏi thế giới trần tục, sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi giúp mình hoàn toàn tập trung vào việc tìm kiếm sự giải thoát và giác ngộ.
Sự hình thành và phát triển của Tăng đoàn Tỳ kheo ni
Dòng tu nữ giới được thành lập khi bà Mahaprajapati (mẹ nuôi của Đức Phật) xin Ngài cho phép người phụ nữ được gia nhập Tăng Đoàn (Sangha) của Ngài. Dù lúc đầu còn do dự, thế nhưng Đức Phật cũng đã xác nhận rằng người phụ nữ hoàn toàn hội đủ khả năng thực hiện được quả mang lại từ con đường, và đạt được giác ngộ. Với sự chấp thuận của Đức Phật Tăng Đoàn Tỳ kheo ni (Bhiksuni Sangha) được thành lập khoảng năm hay sáu năm sau Tăng Đoàn Tỳ kheo [nam giới] (Bhiksu Sangha). Dưới sự lãnh đạo khéo léo của bà Mahaprajapati, tăng đoàn nữ giới phát triển nhanh chóng, hàng ngàn phụ nữ đã tinh khiết hóa được tâm thức và giải thoát mình ra khỏi khổ đau và chu kỳ sinh tử, và đã trở thành arhat (A-la-hán). Kinh điển xưa có đưa ra một danh sách gồm nhiều vị trong số các nữ tu sĩ đầu tiên trên đây, mà các sự thành đạt của họ đã được chính Đức Phật công nhận, chẳng hạn như ni sư Khema có trí tuệ siêu việt, ni sư Dhammadinna có nhiều năng khiếu giảng dạy, ni sư Nanda có nhiều kinh nghiệm về thiền định, v.v.
Đức Phật vạch ra con đường phát huy tâm linh mà tất cả mọi người, nam và nữ, đều có thể bước theo, và trên nguyên tắc cả hai, nam và nữ, đều có cùng khả năng đạt được sự giải thoát như nhau. Thế nhưng chế độ phụ hệ trong xã hội Ấn có thể là nguyên nhân khiến các tiêu chuẩn giới luật áp dụng cho tu sĩ nữ giới khắt khe hơn so với tu sĩ nam giới. Theo truyền thống thì bà Mahaprajapati phải tuân thủ thêm tám giới luật đặc biệt (gurudharmas/tám điều kiện trọng đại), bắt người Tỳ kheo ni (dù đã được thụ phong trọn ven) phải lệ thuộc vào người Tỳ kheo [nam giới] (đã được thụ phong toàn vẹn). Trên dòng lịch sử phát triển của tăng đoàn nữ giới người tỳ kheo ni, ngoài các giới luật áp dụng cho nam tu sĩ, còn phải tuân thủ thêm khoảng 100 giới luật khác.
Tuy nhiên, trong cuộc sống thường nhật các nữ tu sĩ tự quản lý lấy tăng đoàn của mình, quán xuyến mọi việc, tự chọn lựa xem những ai có thể được phép gia nhập tăng đoàn của mình. Các nam tu sĩ chỉ tiếp xúc và cố vấn họ hai lần mỗi tháng, và phải luôn ở bên cạnh họ tại những nơi mà họ ẩn cư trong ba tháng vào mùa mưa, với mục đích bảo vệ họ. Ngoài ra thì các nữ tu sĩ sống hoàn toàn độc lập. Vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, người phụ nữ chọn cuộc sống tu hành không nhất thiết là vì mục đích mong cầu tìm sự giải thoát tâm linh cho mình, mà còn là một phương tiện giải thoát mình khỏi những sự trói buộc của gia đình, chẳng hạn như các thói tục thời bấy giờ bắt người phụ nữ phải tùng phục chồng, mẹ chồng, phải liên tục sinh con đẻ cái, đảm đang các công việc nội trợ chẳng bao giờ dứt.
Nhiều bằng chứng lịch sử thật hiển nhiên cho thấy dòng tu của các nữ tu sĩ đã từng tồn tại và phát triển trong suốt mười lăm thế kỷ ở Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch, con gái của hoàng đế Azoka (A-dục) là Sanghamitra được mời sang Tích Lan để thụ phong cho Công chúa Anula và hàng trăm phụ nữ Tích Lan khác mong muốn được bước vào con đường tu hành. Bà Sanghamitra rời Ấn sang Tích Lan mang theo một chồi cây bodhi (Bồ đề) và đã thành lập Tăng Đoàn Tỳ kheo ni cho Tích Lan,. Tăng đoàn của các nữ tu sĩ Tích Lan tồn tại ít nhất cũng phải đến thế kỷ thứ IX sau Tây Lịch.
Truyền thống thụ phong toàn vẹn cho các nữ tu sĩ trên đảo Tích Lan được truyền sang Trung Quốc vào thế kỷ thứ V sau Tây Lịch, nhân dịp một tỳ kheo ni tên là Devasara du hành sang Trung Quốc và lưu lại hai năm tại Nam Kinh. Năm 433 sau Tây Lịch bà cùng với đoàn tùy tùng đứng ra tổ chức lễ thụ phong cho vài trăm nữ tu sĩ Trung Quốc, đánh dấu sự hình thành của Tăng Đoàn Tỳ kheo ni đầu tiên của nước này. Tăng đoàn tỳ kheo ni từ Trung Quốc lại lan sang Triều Tiên, Đài Loan, và tiếp tục phát triển tại các nơi này cho đến nay. Trong khoảng thời gian nhiều thập niên gần đây, các nữ tu sĩ Tích Lan và các nước khác bắt đầu tái lập các Tăng Đoàn nữ giới theo truyền thống của xứ sở mình trước đây, nhờ vào sự thụ phong của các dòng truyền thừa tỳ kheo ni còn tồn tại qua hằng bao thế kỷ tại các nước trên đây (Trung Quốc, Triều Tiên, Đài Loan...).
Tương tự như màu sắc của một cầu vồng
Cuộc sống của những người nữ tu sĩ Phật giáo ngày nay thật khác biệt nhau, tùy tông phái, xứ sở và từng tu viện, và cũng có thể là tùy theo từng người. Các nữ tu sĩ mặc áo với nhiều màu sắc khác nhau, nói nhiều thứ tiếng khác nhau, tu tập theo nhiều cách và sống theo nhiều lối sống khác nhau. Trong cuộc sống của họ chỉ có một điểm giống nhau là đầu cạo trọc, khoác lên người chiếc áo của người tu hành và cùng tuân thủ một số giới luật giống nhau. Các giới luật áp dụng cho họ chủ yếu cũng là các giới luật chung cho tất cả những người Phật giáo là: không được sát sinh, trộm cắp, nói dối, tránh các hành vi tính dục bất chính, không được dùng các chất ma túy. Điểm khác biệt duy nhất là đối với người tu tập tại gia là họ chỉ phải tránh các hành vi tính dục bất chính, trong khi đó thì người nữ tu sĩ (và cả nam tu sĩ) phải thệ nguyện hoàn toàn tiết dục. Cuộc sống độc thân đó không phải chỉ có nghĩa là không được lập gia đình, mà cũng không được giao du thân mật, sự tự nguyện đó giải thoát họ khỏi mọi thứ ràng buộc trong bối cảnh gia đình.
Những người nữ tu sĩ Phật giáo ngày nay sống rải rác trên khắp thế giới, từ Campuchia đến Mông Cổ, từ Thụy Điển đến Tân Tây Lan. Tại các nước theo Phật giáo Theravada thì người nữ tu sĩ mặc áo trắng, cam hay nâu, trong các vùng Đông Á thì họ mặc áo màu lam, đen hay màu tím (màu tía/purple), tại các nơi theo Phật giáo Tây Tạng thì mặc áo màu nâu đỏ (maroon/nâu đỏ hay nâu sậm) hoặc vàng. Họ nói nhiều thứ tiếng, từ các thổ ngữ của các bộ tộc đang có nguy cơ bị diệt chủng ở Bangladesh cho đến tiếng Anh hiện đại chen đầy tiếng lóng của dân Anh tại thủ đô Luân Đôn. Phương tiện sinh sống cũng khác nhau, các nữ tu sĩ Tích Lan ngày ngày khất thực khắp nơi trong nước, các nữ tu sĩ Đài Loan thì trường chay trong chùa. Một số nữ tu sĩ thệ nguyện suốt đời không chạm đến đồng tiền, một số khác thì làm năm bảy nghề, kể cả cho vay thế chấp. Một số chăm lo thiền định và ẩn cư, một số khác thì quản lý các ngôi chùa tấp nập, đứng ra sắp xếp các chương trình thuyết giảng quốc tế. Một số ăn chay trường thật nghiêm túc, không ăn trứng, hành, tỏi, một số khác không kiêng cử gì cả khi dùng các thực phẩm cúng dường. Nhiều người không biết đọc biết viết, nhưng cũng có một số có bằng tiến sĩ. Tất cả sự đa dạng đó phản ảnh tính cách phong phú và phức tạp của những người nữ tu sĩ trong thế giới tân tiến ngày nay.
Các nữ tu sĩ Phật giáo Theravada
Các nữ tu sĩ tu tập theo Phật giáo Theravada sống ở Miến Điện, Campuchia, Lào, Tích Lan và Thái Lan, tuy nhiên cũng thấy có một vài tập thể nhỏ ở Bangladesh, Ấn Độ và Việt Nam. Lối sống của họ dựa vào các khuôn mẫu quy định cho các tăng đoàn nữ giới từ những thời kỳ xa xưa. Họ mặc áo vải đơn sơ, sống bằng khất thực, không được phép dùng thêm các thức ăn đặc sau bữa ăn trưa. Các dasasil mata (là các nữ tu sĩ tuân thủ 9 hay 10 giới luật, nhưng chưa được thụ phong) ở Tích Lan mặc áo màu cam hay nâu, các tila shin (như đã được giải thích trong ghi chú trên đây, tác giả có ý dùng các ngôn ngữ địa phương để chỉ các nữ tu sĩ Phật giáo tại những nước chưa có truyền thống thụ phong trọn vẹn cho họ) mặc màu hồng hay nâu; các dongchee ở Campuchia, các maekhao ở Lào, và các maechee ở Thái Lan thì mặc áo trắng. Tại Tích Lan có khoảng 2 000 tu sĩ nữ giới, 60 000 ở Miến Điện, 900 ở Campuchia, 400 ở Lào, 20 000 ở Thái Lan. Họ tuân thủ 8, 9 hay 10 giới luật. Ngoài việc tuân thủ các giới luật dành cho các Phật tử tại gia trên đây, họ còn tự nguyện không đeo nữ trang, nhảy múa, và hát xướng, không nằm giường cao, ngồi ghế rộng, không dùng thêm thực phẩm đặc sau bữa ăn trưa. Ngoài ra đối với những người tuân thủ 10 giới luật thì cũng không được phép dính dáng đến vàng, bạc và tiền. Dù không hội đủ số tỳ kheo ni đủ tư cách thụ phong cho họ, thế nhưng không phải vì thế mà xem họ là các sramanerika (sa di ni).
Các nữ tu sĩ Phật giáo Theravada tụng niệm kinh điển bằng tiếng Pa-li và thiền định mỗi ngày hai lần, vào sáng sớm và chiều tối, mỗi lần khoảng một tiếng. Ngoài ra trong ngày họ luyện tập một phép thiền định thật chuyên biệt gọi là Vipassana (tiếng Phạn là Vipasyana, nguyên nghĩa là sự "quán thấy sâu xa" - Hán dịch là "minh sát" - quán thấy ở đây có nghĩa là quán thấy bản chất đích thật của mình, tâm thức mình và thế giới. Sự quán thấy đó mang tính cách trực giác, đôi khi hiện lên rất đột ngột, giúp người hành thiền hòa nhập vào chính sự quán thấy ấy của mình ngay trong lúc đó, nói một cách khác là sự quán thấy ấy và chính mình trở thành "một". Phép luyện tập thiền định nói chung thường gồm hai giai đoạn hay cấp bậc: trước hết là phải phát huy một sự chú tâm cao độ, mang lại cho mình một thể dạng tâm thức thăng bằng, phẳng lặng, trong sáng. Trong thể dạng đó mọi sự xao lãng và các xúc cảm bấn loạn đều lắng xuống. Thể dạng này thường được gọi là Samatha/Chỉ, nói một cách cụ thể và dễ hiểu hơn thì đấy là một tâm thức mở rộng, êm ả, thanh thoát và nhẹ nhàng, các biên giới thời gian và không gian mờ đi và gần như biến mất. Trong thể dạng đó tâm thức sẽ trở nên bén nhạy, tinh khiết và dần dần đưa đến một thể dạng khác sâu xa hơn gọi là Samadhi/Định. Thể dạng Samadhi - khác hơn với thể dạng vắng lặng và không xao động gọi là Samatha trên đây - sẽ rất linh hoạt và hàm chứa một khả năng quán nhận thật sắc bén, bao quát và tuyệt đối gọi là Prajna (Trí Tuệ), giúp người hành thiền nhận biết một cách minh bạch và chính xác về các khái niệm mà trước đây mình chỉ hiểu một cách mơ hồ hay đại khái bằng cách suy diễn và lý luận mang tính cách nhị nguyên, chẳng như các khái niệm về vô ngã, vô thường, khổ đau, niết bàn, sự đình chỉ/nirodha, tính cách ảo giác và tương liên giữa mọi hiện tượng, tính cách nhị nguyên của tư duy, tri thức, sự hiểu biết/nana, v.v. Sự quán thấy đồng loạt và trực giác đó đôi khi còn gọi là sự "cảm nhận" mọi sự vật "chỉ là như thế" hay "như lai") và tham dự các khóa giảng Pháp và ẩn cư tổ chức theo các định kỳ đều đặn. Một số chọn lối sống biệt tu, tìm sự vắng lặng nhằm tránh xa các sự cám dỗ và bon chen của xã hội thường tình. Một số khác sinh sống trong các vùng làng mạc đông dân, đô thị và thành phố, hầu giúp đỡ người thế tục trong cuộc sống tâm linh của họ, và đấy cũng là một cách giúp người tu hành hòa mình với người thế tục: một bên thì tụng niệm các kinh paritta (kinh cầu an) một bên thì hiến dâng các nhu cầu vật chất. Nhiều người đứng ra khuyên giải người thế tục hoặc giảng dạy Dharma (Đạo Pháp) cho họ, nhất là cho phụ nữ và trẻ em, hoặc góp phần tích cực vào sự sinh hoạt của các chùa chiền và tu viện lớn.
Trước đây không lâu, các nữ tu sĩ Phật giáo Theravada vẫn chưa hề được chính thức thụ phong toàn vẹn hầu giúp mình trở thành các bhikkuni (tỳ kheo ni), chẳng qua là vì truyền thống thụ phong toàn vẹn cho người phụ nữ do chính Đức Phật thiết lập khi thụ phong cho bà Mahaprajapati (mẹ nuôi của Đức Phật) đã bị mai một tại một số nước (chẳng hạn như Ấn Độ, Miến Điện và Tích Lan), hoặc chưa hề được thiết lập tại một số các nước khác (chẳng hạn như Campuchia, Lào, Thái Lan). Nếu không được thụ phong toàn vẹn thì các người nữ tu sĩ không được xem là thuộc thành phần của Sangha (Tăng đoàn), không được giúp đỡ vật chất đầy đủ, không có nhiều dịp học hỏi, và cũng không được quý trọng như các tu sĩ nam giới. Họ sống độc lập bên trong các tăng đoàn riêng, hoặc chung với các tu sĩ nam giới trong các chùa chiền của họ. Vào những năm gần đây một số bắt đầu hòa mình vào sự sinh hoạt xã hội (tức là có nghề nghiệp giúp mình làm kế sinh nhai), và từ năm 1988 một số tìm cách được thụ phong toàn vẹn. Tăng đoàn Tỳ kheo ni Theravada quan trọng nhất là ở Tích Lan, khoảng 500 nữ tu sĩ trên hòn đảo này đã được thụ phong toàn vẹn góp phần tái lập lại Tăng đoàn Tỳ kheo ni (Bhikkhuni Sangha) và làm sống lại truyền thống lâu đời do ni sư Sanghamitra (con gái vua A-dục) đã đưa vào Tích Lan trước đây.
Các nữ tu sĩ Phật giáo Mahayana (Đại Thừa)
Các nữ tu sĩ Đại Thừa (Mahayana) tu tập dựa theo các dòng truyền thừa được truyền đi từ Trung Quốc hay Tây Tạng. Dòng truyền thừa nữ giới Tích Lan được đưa vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ V sau Tây Lịch, và sau dó từ Trung Quốc vào Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam, và sau hết là các tập thể người Hoa ở Indonêxia, Mã lai, Phi Luật Tân, Singapore và các nơi khác trên toàn thế giới. Lối sống của họ tùy thuộc vào các môi trường sống khác nhau, chẳng hạn như những nơi có khí hậu lạnh và các nền văn hóa khác với Ấn Độ. Thay vì khất thực thì họ trực tiếp nhận các vật cúng dường như rau trái và tự nấu ăn lấy, và thường thì họ tự trồng trọt lấy. Các nữ tu sĩ tu tập theo các truyền thống này thường ăn mặc các màu gần với màu đen (màu chàm) hoặc màu xám (màu lam), may cắt theo kiểu áo của các nho sĩ thời nhà Đường (Trung Quốc). Ở Triều Tiên có khoảng 20 000 nữ tu sĩ, 2 000 ở Nhật, 20 000 ở Đài Loan, 14 000 ở Việt Nam, vài ngàn ở Trung Quốc (trên tổng số 1 tỉ 400 triệu dân! Đấy là kết quả mang lại từ nền văn minh vật chất ngày nay. Tàn phá các giá trị tinh thần, truyền thống và nền văn minh lâu đời của một dân tộc, để đổi lấy các cơ xưởng sản xuất vật dụng rẻ tiến cho cả thế giới tiêu dùng, gây ô nhiễm đưa đến đủ mọi thứ bệnh tật cho người dân, và cất giữ mốt số giấy tờ chứng khoán trong ngân hàng - có thể cháy hết trong một cơn hỏa hoạn bất cứ lúc nào - quả là một sự đánh đổi không tương xứng, khờ khạo và dại dột), và vài trăm trong các tập thể những người Trung Quốc cộng sản sống ở hải ngoại.
Truyền thống Tỳ kheo ni phát triển rất mạnh trong các tăng đoàn Đại Thừa (Mahayana). Những người phụ nữ muốn bước vào con đường tu tập sẽ được các Tỳ kheo ni lão thành hướng dẫn, tuy nhiên họ cũng có thể học phép thiền định và kinh sách với các tu sĩ cả nam và nữ giới. Các nữ tu sĩ theo truyền thống Đại Thừa họp mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng và buổi tối để tụng niệm các kinh bằng tiếng Hán, hoặc các câu Man-tra (các câu chú mang tính cách thiêng liêng) bằng tiếng Phạn, hoặc các kinh điển bằng ngôn ngữ của dân tộc mình. Vào các dịp lễ âm lịch, họ tổ chức các khóa tu tập hướng vào nhiều vị Phật và Bồ-tát khác nhau. Trong các dịp lễ này họ tụng niệm hai lần mỗi ngày, sáng và chiều, mỗi lần có thể kéo dài nhiều tiếng, đôi khi có thể là nhiều ngày. Các nghi lễ này hướng vào Phật Amitaba (A-di-đà), là vị Phật "vô lượng thọ" (thọ mệnh vô lượng) và "vô lượng quang" (ánh sáng vô lượng), và vị Bồ-tát Avalokiteshavara (tiếng Trung Quốc là Guan Yin/Quan Âm), biểu trưng cho lòng từ bi, cả hai vị này đều được tôn thờ rộng rãi trong dân chúng. Rất nhiều nữ Phật tử tại gia cùng tham gia với họ, ủng hộ họ rất hậu về tài chính, mua hoa và cúng dường thực phẩm. Nhằm hồi đáp lại, các nữ tu sĩ dạy cho họ thiền định và giảng Pháp cho họ, cố vấn họ về các vấn đề gia đình, tham dự lễ mai táng, xoay sở mọi việc giúp các gia đình có người thân qua đời, tổ chức các trại họp bạn cho thiếu nhi và các thanh thiếu nữ, mở các khóa dạy nấu ăn chay, hoặc cắm hoa, v.v.
Trong khoảng mười năm sau này, Phật giáo lớn mạnh tại hầu hết các nước theo Đại Thừa, tất cả nhờ vào sự nhiệt tình và hăng say của các nữ tu sĩ. Nếu nhìn thật gần thì sẽ thấy trong các nước đó người Phật giáo đã thành lập được nhiều trung tâm đào tạo hiện đại với các chương trình giảng dạy giáo lý Phật giáo gồm từ bốn đến năm năm học, dành cho các nữ và nam tu sĩ và cả người thế tục. Nhờ vào các chương trình đào tạo và giảng dạy đầy đủ đó, các nữ tu sĩ trở nên tích cực hơn trong sự sinh hoạt xã hội, tham gia vào việc in ấn, dịch thuật, chăm sóc người ốm đau, công tác trong chốn lao tù, hướng dẫn trẻ em, giúp đỡ người già yếu, tiếp tay với các trạm y tế, các nhà dưỡng lão, và vô số các công việc khác.
Các nữ tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Truyền thống tu tập của người phụ nữ Tây Tạng trải qua một lịch sử rất lâu đời, thế nhưng cũng tương tự như trường hợp của những người phụ nữ ở các nơi khác trên địa cầu, các thành tích của họ không hề được ghi chép cẩn thận. Nền văn hóa Tây Tạng cũng đã được phát triển ra ngoài biên giới của xứ sở này, chẳng hạn như tại các vùng Bhoutan, Mông Cổ, Nepal, Buryatia (Bouriatie, Burjatie..., là một xứ tự trị thuộc nước Nga, sát với biên giới bắc Mông Cổ), Kalmykia (Kalmukia/Kalmukie/Kalmoukie..., một nước tự trị bé xíu phía bắc xứ Georgia và biển Caspian) và một số các vùng khác của Liên Bang Xô Viết trước kia, và cả các vùng biên giới bắc Ấn Độ thuộc phía tây rặng Hy-mã Lạp-sơn như: Kinnaur, Laddakh, Lahaul, Spiti, và vùng Zanskar thuộc phía tây Ấn độ, sát với biên giới phía nam của Pakistan, và cả trong các tập thể người dân Tây Tạng sống lưu vong ở Ấn, Nepal và các nước khác. Tại tất cả các nơi này đều thấy có các nữ tu sĩ, thế nhưng ít hơn nam giới và cũng không tạo được nhiều ảnh hưởng như họ. Thường thì họ chỉ tuân thủ 10 giới luật dành cho những người sramanerika (sa di ni/novice nun), nhưng vẫn được xem là thuộc vào thành phần của Tăng Đoàn. Việc thụ phong toàn vẹn cho những người nữ tu sĩ Tây Tạng chưa bao giờ được thực hiện (kể cả trong quá khứ). Dầu sao cũng không thấy kinh sách Tây Tạng ghi chép gì nhiều vể những người tỳ kheo ni, và các dòng thụ phong toàn vẹn cho người phụ nữ cũng chưa bao giờ được chính thức thành lập trong Phật giáo Tây Tạng. Con đường từ Ấn Độ lên Tây Tạng xuyên qua những vùng núi cao đầy tuyết phủ của rặng Hy-mã Lạp-sơn rất nguy hiểm, ngay cả đối với các nam tu sĩ, vì vậy đây có thể là nguyên nhân khiến các nữ tu sĩ [từ Ấn Đột] không đến được nơi này (các người phụ nữ Tây Tạng bắt đầu tu tập từ lâu đời, thế nhưng chưa bao giờ thành lập được các dòng truyền thừa như các người đồng tu nam giới, hoặc các tặng đoàn nữ giới như ở các nơi khác).
Có khoảng 1 290 nữ tu sĩ tu tập theo Phật giáo Tây Tạng ở Ấn và Nepal, và ít nhất cũng có một số tương đương trong xứ Tây Tạng dù đang bị cộng sản chiếm đóng, và thật ra thì cũng khó ước tính một cách chính xác được (nhiều học giả cho rằng tỷ lệ xuất gia rất cao của phụ nữ bên trong xứ Tây Tạng là một hình thức bất hợp tác chống lại sự cai trị của Trung Quốc). Hầu hết các nữ tu sĩ Tây Tạng thường chọn cách ẩn tu và thiền định, và thực thi cả các nghi lễ của Kim Cương Thừa. Phương pháp quán tưởng hướng vào các vị Bồ-tát hoặc các vị Phật, có thể giúp đạt được các phẩm tính của thần linh yidam (thần linh của phép quán tưởng). Chẳng hạn như nếu quán tưởng chính mình là vị Avalokitesvara (Quán Thế Âm, tiếng Tây Tạng là Chenresig), là vị Bồ-tát của lòng từ bi, thì dần dần chính mình cũng sẽ hóa thành vị ấy và mang phẩm tính từ bi thật hoàn hảo của vị ấy. Theo truyền thống tu tập Tan-tra, thì người tu tập có thể đạt được giác ngộ với thân xác của mình ngay trong cuộc sống này. Do đó có thể hiểu rằng sự giác ngộ hoàn hảo cũng có thể đạt được qua thể dạng của một người phụ nữ. Trong số các vị Phật và Bồ-tát được tôn thờ rộng rãi nhất có nhiều vị thuộc nữ giới, chẳng hạn như Tara và Vajrayogini, thường được xem như các thần linh quán tưởng cho cả nữ và nam giới.
Trước thập niên 1980, việc tu tập của các nữ tu sĩ Tây Tạng chủ yếu là tụng niệm, thực thi nghi lễ và thiền định. Vì truyền thống trọng nam khinh nữ trong chốn chùa chiền, nên các chương trình giảng dạy căn bản về giáo lý Phật giáo trong ba tu viện đại học lớn ở miền nam nước Ấn (Drepung, Ganden và Sera) và cả Viện Phật giáo Biện chứng (Institute of Buddhist Dialectics) (biện chứng là một phương pháp lý luận, đối chứng, thảo luận... nhằm tìm hiểu hay chứng minh một đường hướng tư tưởng, một sự hiểu biết hay sự thật nào đó. Khoa "Phật giáo Biện chứng" cũng có thể xem tương đương với khoa "Thần học" của các tôn giáo Độc thần) ở Dharamsala (bắc Ấn Độ, nơi cư ngụ của Đức Đạt-lai Lạt-ma) không thu nhận các học viên nữ tu sĩ. Các nữ tu sĩ chỉ có thể học hỏi giáo huấn Phật giáo vào các dịp thuyết giảng đông đảo dành cho quảng đại quần chúng, nhưng không đuợc học kinh điển một cách quy củ. Trên nguyên tắc chùa chiền tốt nhất cho người nữ tu phải được thiết lập ở những nơi hẻo lánh hầu tránh mọi sự tiếp xúc giữa họ và xã hội thế tục, nhưng đấy cũng là cách gây ra khó khăn cho họ trong việc học hỏi giáo lý, thường thì họ chỉ được học hỏi thêm nhờ vào các dịp lễ hội lớn. Cộng sản xâm chiếm Tây Tạng, Mông Cổ và các vùng theo Phật giáo ở Nga vào thế kỷ XX, đã mang lại nhiều hậu quả thật thảm hại cho các nữ tu sĩ, kể cả nam tu sĩ và các người Phật giáo thế tục. Chẳng hạn các nữ tu sĩ không mấy khi được theo học các chương trình giảng dạy Phật giáo ở cấp bậc cao và có quyền đứng ra giảng dạy Dharma (Đạo Pháp).
Trong vòng hai mươi năm trở lại đây, dù phải đối đầu với tất cả các thứ khó khăn trên đây, thế nhưng nhiều cải tiến đáng kể trong cuộc sống của những người nữ tu sĩ trong các vùng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Tây Tạng, cũng đã được thực hiện. Họ tìm mọi cách để được học hỏi giáo huấn và noi theo các thái độ hành xử do Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng như các vị Lạt-ma khác đưa ra, là những người từng được học hỏi Phật giáo trên đất nước Tây Tạng trước khi bị cộng sản xâm chiếm. Nhờ tấm gương của các vị thầy trên đây và đồng thời ý thức được quyền hạn của người phụ nữ, nên các nữ tu sĩ đã bắt đầu bắt tay vào việc soạn thảo các chương trình giảng dạy và thành lập các trung tâm đào tạo dành cho các phụ nữ Phật giáo trong toàn vùng Hy-mã Lạp-sơn. Các chương trình giảng dạy này đã tạo dịp cho người nữ tu sĩ được học về triết học Phật giáo và tham gia vào các cuộc tranh luận. Các nữ tu sĩ Phật giáo Tây Tạng bắt đầu được theo học các chương trình giảng dạy thật nghiêm chỉnh về Phật giáo biện chứng, và hàng năm được tham dự các buổi họp mặt giữa các tu viện và chùa chiền để cùng so tài hiểu biết với nhau, khởi sự trước hết là tại Dharamsala và sau đó đã lan ra các nơi khác, như Nepal và các vùng lân cận của rặng Hy-mã Lạp-sơn. Chùa chiền đầy ắp các nữ tu sĩ, họ chỉ mong được học các kinh điển thật khó. Các chương trình giảng dạy cũng như các sự khích lệ của những người chung quanh đã mang lại nhiều tự tin cho họ, ngày càng có nhiều người biết đến họ và kính nể họ hơn, và ngày nay thì họ đã đủ sức góp phần mình vào việc bảo toàn và quảng bá gia tài Đạo Pháp lưu lại từ ngàn xưa.
Các nữ tu sĩ Phật giáo trong xã hội tân tiến ngày nay
Năm 1987 đã đánh dấu một khúc quanh thật lớn đối với những người phụ nữ Phật giáo, nhất là các nữ tu sĩ. Trong năm này lần thứ nhất họ được vinh dự tham gia hội nghị quốc tế Sakyadhita của những người phụ nữ Phật giáo, hội nghị này chưa bao giờ được tổ chức trước đó. Chủ tâm lo cho người nữ tu sĩ quả là cả một điều sáng suốt, nói lên sự ý thức của mình trước các khó khăn và tình trạng kỳ thị nam nữ mà họ đang phải đương đầu ngày nay. Các nữ tu sĩ tại nhiều nước trên thế giới bị bỏ quên, không đủ ăn, không được chăm sóc sức khỏe và học hành. Các đòi hỏi về giáo dục thật hết sức khẩn thiết đã khiến nhiều nữ tu sĩ tham dự đại hội đề nghị phải đặt giáo dục lên hàng đầu trong các sinh hoạt của hiệp hội Sakyadhita, một tổ chức quốc tế hoàn toàn mới mẻ của những người phụ nữ Phật giáo. Bài diễn văn của Đức Đạt-lai Lạt-ma trước đại hội đã mang lại một vinh dự to lớn cho toàn thể những người phụ nữ Phật giáo, và sự nhấn mạnh của Ngài về tầm quan trọng của giáo dục cũng đã mang lại thật nhiều khích lệ cho họ. Hội nghị lần đầu tiên trên đây của hiệp hội Sakyadhita đã mang lại cho người phụ nữ Phật giáo thật nhiều hăng say, thúc dục họ tham gia vào các công tác cải thiện thân phận của người p