;
Ngọn hải đăng trên dãy Nam Giới - Ảnh báo Dân Sinh
Trong lịch sử Việt Nam không ít lần các thương gia, nhà quân sự, những kẻ lưu đày, chạy loạn, hay các nhà truyền đạo... trên đường thực hiện những cuộc hải hành dài ngày đã dừng chân lại đây vì mê hoặc bởi danh lam linh địa này, hoặc bởi nhiều lí do khác nhau, nhưng cuối cùng họ đều nhận được ân huệ của đất trời Nam Gới.
Chả thế mà trong "Minh hương cẩm tú" của Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta có câu: "Di miếu man tuyền kim Vũ Mục/ Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên" có nghĩa: "Di miếu còn truyền nay Vũ Mục/ Danh sơn vẫn nhắc tới cổ Quỳnh Viên". Vũ Mục chính là tướng Lê Khôi, cháu ruột Lê Lợi, năm Thái Hòa thứ 2 1444 đem quân chinh phạt Chiêm Thành tuy giành được chiến công hiển hách nhưng không may bị thương nặng, và ông đã thanh thản chọn Nam Giới để gửi lại thân xác của mình.
Nửa đầu thế kỉ XVII giáo sĩ Alexandere de Rhodes (Đắc Lộ) trên đường từ Bắc vào Nam truyền đạo, khi thuyền đến Nam Giới thì gặp bão tố đánh dạt vào cửa Sót trôi ngược lên sông Hộ Độ. Tại đây ông đã truyền đạo Ki tô giáo cho người bản địa. Đó chính là Giáo xứ An Nhiên, thuộc địa bàn phường Thạch Hạ, Tp Hà Tĩnh (cũ), nơi mà được nhắc đến như là Giáo xứ tiên khởi ở Hà Tĩnh.
Hay như người Bồ Lô, còn gọi là Nam Đảo không rõ xuất xứ từ đâu, đến vùng Nam Gới từ giai đoạn nào, và vì lí do gì họ đến ở đây? Chỉ biết đặc điểm nổi trội dễ nhận thấy về chủng tộc thường có vóc dáng khô gầy, tóc quăn, da đen, sinh hoạt chủ yếu trên thuyền bằng nghề ngư phủ quanh quẩn ở vùng Nam Gới, tập trung nhiều từ cửa Sót đến cửa Nhượng. Họ chỉ chịu lên bờ định cư khoảng chưa đầy 50 năm lại nay...
Từ đó ta có thể suy luận cuốn "Nguồn gốc Phật giáo Việt Nam" do GS. Lê Mạnh Thát biên soạn, thì Nam Giới từ xa xưa thuộc đất Chiêm Thành đã từng là cửa ngõ thông thương ra các nước trên thế giới. Vào thời Vua Hùng Vương thứ XVIII có một vị thương nhân bảo Tiên Dung, hãy bỏ ra một dật vàng, năm nay ra nước ngoài mua vật quý, đến sang năm được lãi mười dật. Tiên Dung vui mừng nói lại với Chử Đồng Tử rằng, vợ chồng ta có nhau là bởi trời mà nên, nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý để sinh sống. Đồng Tử liền nghe vợ rồi cùng thương nhân lên thuyền buôn ra đi.
Trên đường qua Quỳnh Viên, trên núi có một cái am nhỏ nằm cạnh một hồ nước rộng và trong nhìn thấy tận đáy. Khi cho thuyền dừng lại lấy nước, thấy phong cảnh đẹp, Đồng Tử vào am dạo chơi. Trong am có một tiểu tăng tên là Phật Quang giảng pháp hay quá nên Đồng Tử ở lại học đạo, rồi đưa vàng cho thương nhân đi tiếp.
Đến lúc thương nhân trở lại nơi đó đón thì thì Đồng Tử đã đắc đạo nên nhà sư bèn tặng cho một cây gậy cùng một cái nón và bảo: "Các việc linh thông đều ở đó rồi". Đồng Tử trở về đem câu chuyện kể với Tiên Dung, không ngờ Tiên Dung giác ngộ ngay, bèn bỏ cả quán chợ, nghề buôn, cùng chồng du phương hành đạo.
Chuyện Tiên Dung - Chữ Đồng Tử được GS Lê Mạnh Thát đưa ra rất nhiều dẫn chứng đầy thuyết phục, xem đó là những Phật tử đầu tiên của nước ta. Đồng thời cho rằng, Nam Giới chính là cái nôi của Phật giáo Việt Nam chứ không phải Luy Lâu.
Trước mắt ít nhất ta đã xác định được Nam Gới không phải là một ngọn núi thần thoại mà là ngọn núi có thật. Từ những dấu vết còn tồn tại đến ngày nay có thể khẳng định Cửa Sót về Nam thuộc vùng đất Chiêm Thành, nhưng cần lưu ý từ Bắc sông Lam trở ra hiếm khi ta tìm thấy có di chỉ nào liên hệ đến nền văn hóa Chiêm Thành. Ngược lại từ Nam sông Lam trở vào, cụ thể là Nghi Xuân, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên (cũ)... các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều di chỉ lên quan với văn hóa Chăm Pa.
Tại địa bàn xã Thạch Khê có hai giếng nước hình vuông xây theo kiểu Chiêm Thành tồn tại trước hai ngôi chùa đều có tên Thanh Quang. Mội chùa tọa lạc tại xã Thạch Hải (cũ), trong ngôi chùa có quả chuông khắc chữ "Yên nhân tự chung" nên có thể ngôi chùa này có tên cổ là Chùa Yên Nhân; và một chùa Thanh Quang khác tọa lạc trên rú Mốc thuộc xã Đỉnh Bàn (cũ). Trong khuôn viên hai ngôi chùa người ta tìm thấy nhiều mảnh vỡ gạch ngói và công cụ gia đình như chén, bát, có những mảnh vở mỏng với niên đại từ thế kỉ thứ I, thứ II trước công nguyên.
Ông Nguyễn Minh Thông (SN 1960) ở thôn Nam Hải xã Thạch Hải (cũ) - người trông coi các di tích đền, chùa trong xã cho biết: Quanh khu vực Đền "Tam Tòa Tứ Vợi" thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang có rất nhiều giếng nước hình vuông được lát bằng gỗ lim bốn phía và đáy. Điểm lạ là dù nông nhưng nước không bao giờ cạn. Tuy vậy từ khi sử dụng nước máy đến nay hầu hết những giếng đó bị san lấp. Cũng tại khu vực này người ta còn phát hiện được rất nhiều cặp ván gỗ lim có kình dáng kích thước giống nhau do mưa bão làm xói lở trồi lên...những cặp ván gỗ như thế được cho là dụng cụ dùng để phục vụ chiến tranh của quân Chiêm Thành, hoặc là phương tiện hành nghề đi biển của họ?..
Theo "Đại Việt sử kí toàn thư" thì phía Nam núi Nam Giới là nước Hồ Tôn, sau đổi tên thành Bồn Man thuộc Chiêm Thành. Hiện nay di tích Bồn Man vẫn còn có vũng Bồn Bông là ruộng cao quanh chân núi Văn Sơn; Bồn Man thị là chợ Bồn Man nằm ở Trạng Cháy, cách Bàu Hang khoảng 500 mét về phía Nam đến động Nhà Thờ giáp khe Trung Miệu vẫn còn nhiều di tích sót lại dưới lòng đất mà khi xây dựng công trình, làm nhà cửa... người dân địa phương đã phát hiện thấy rất nhiều mảnh vỡ chum vại, dấu vết các lò rèn, đồng tiền cổ...
Nằm giữa rú Mốc và Nam Gới có hai địa điểm được gọi là cửa Nước. Giữa hai cửa Nước này có một bàu nước dài khoảng 1km gọi là Bàu Hang. Khoảng hơn 30 năm trước Bàu Hang còn rất rộng và sâu (có chỗ sâu tới hơn 3 mét), quanh năm nước đục.Tương truyền đó là tinh dịch của rồng đen tiết ra. Cạnh bàu có đền thờ thần Cá Rô cũng là một truyền thuyết rất đáng được quan tâm. Dưới bàu có một cửa hang rộng chừng hơn 1 mét, cao chừng hơn 2 mét thông ra Cửa Sót. Nay do cát bồi lấp nên cửa hang bị thu nhỏ, nhưng nhờ có tảng đá to chắn ngang phía trên nên người vẫn chui lọt.
Có giả thiết cho rằng, đây là cửa Nam Giới ngày xưa trước khi sông Lam đổi dòng hình thành lên với dụng ý, Phật giáo truyền vào nước ta từ phía Nam qua trung gian nhà sư Phật Quang. Nhà sư này có thể là người Ấn Độ đang tìm cách truyền bá Phật giáo tại núi Quỳnh Viên! Vì rằng, truyện kể: Đồng Tử lênh đênh ra khắp nước ngoài ( Phù du hải ngoại). Rất có thể vùng núi Nam Gới thời đó hoàn toàn thuộc Chiêm Thành, hoặc mới sáp nhập vào bản đồ nhà nước Văn Lang?
Dẫu sao trên núi Nam Giới vẫn còn một khối đá cân xứng rộng khoảng 10 mét vuông có in hình hai dấu chân người, tương tuyền là dấu chân Phật. Khối đá này được cho là nằm dưới lòng ao trời nay ao đã cạn nên để lộ ra. Có giả thiết cho rằng đó chính là giếng nước mà Chử Đồng Tử phát hiện thấy đầu tiên trước khi gặp nhà sư Phật Quang. Ngoài ra, còn có dấu tích ngôi am thờ công chúa Tiên Dung - Đồng Tử đã tu hành đạo, và một ngôi chùa cổ cho là được nhà sư Phật Quang trụ trì ở đó để tu hành và truyền đạo. Với nhà sư Phật Quang còn được nhiều bậc cao niên trong vùng nhắc tới bằng tên thân mật là sư Khoai. Bởi nhà sư đã có công mang giống cây khoai lang từ xứ khác đến đây truyền dạy cho dân cách trồng lấy củ.
Đây là điều ta cần để đi sâu vào tìm hiểu về mối quan hệ giữa nguồn gốc xuất xứ của Phật giáo Việt Nam với địa danh Nam Giới.
Trước mắt chúng ta cần đánh giá vai trò quan trọng của núi Nam Giới không đơn thuần chỉ là một thắng cảnh tự nhiên, mà phải thay đổi tư duy xác định ngọn núi như một Bảo tàng lịch sử nói chung và Bảo tàng Phật giáo nói riêng xếp vào dạng đặc biệt. Để từ đó tập trung nghiên cứu, bảo vệ, tôn tạo và tái tạo môi trường thiên nhiên, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.
Một tín hiệu đáng mừng là sau khi Dự án Mỏ sắt Thạch Khê tạm dừng khai thác; hầu như các mỏ đá ở Nam Giới đóng cửa, nạn chặt phá rừng và săn bắt động vật hoang dã cũng đã chấm dứt hoàn toàn. Mới chưa đầy 10 năm lại nay nhưng môi trường tự nhiên của Nam Giới đã hồi sinh nhanh chóng. Đó cũng là một cách gián tiếp để bảo vệ, làm giảm thiểu sự xâm hại đến các di tích không riêng của Phật giáo, mà cả quần thể di tích Lịch sử - Văn hóa qua nhiều thời cuộc thăng trầm trên vùng núi thiêng.
Ít nhất khi quay lại đây ta có thể phát hiện thấy những đàn khỉ vàng chạy nhảy tung tăng, những con trăn gấm to như cột nhà cũng bắt đầu xuất hiện, nhiều đàn dê nuôi thả rông trên núi bất ngờ quay lại với cuộc sống hoang dã. Trong lúc chủ nhân nuôi nó cũng đã ý thức được những giá trị của rừng, nên không tổ chức săn lùng nữa. Không những vậy, có nhiều con khe, suối tưởng chừng bị lấp dòng do ảnh hưởng tác động môi trường từ việc khai thác mỏ sắt thời kì đầu đã mở lại dòng chảy tự nhiên đem lại nguồn nước mát lành đổ ra biển ngang, như khe Cửa Nước, khe Địch Vô...
Từ ngàn xưa đến nay, Nam Giới được xem như một ngọn núi đầy quyền năng, có thể sắp xếp lại trật tự của thiên tai, chiến tranh....để bảo vệ cuộc sống hạnh phúc an yên cho dân lành; và núi cũng thức tỉnh mọi người luôn biết cách vượt qua mê khổ, mà tinh tấn tạo đức cho đời. Có lẽ vì mối liên hệ đó, nên khi chết người dân quanh vùng thường chọn hướng núi linh này để gối đầu lên đó mà ru yên giấc ngủ vĩnh hằng!
Tháng 7/ 2025
Bút ký của Nguyễn Ngọc Vượng