;
Với người lý tánh chưa nắm được, tức mặt duyên khởi chưa thông, thì cần nương vào những gì Như Lai đã nói và những gì không phải là Như Lai nói để việc tiến tu không lầm lẫn.
Trong kinh Đại bát Niết-bàn tập I, phẩm Tài chánh, Bồ-tát Ca Diếp cũng đã nêu lên việc này:
- Nay con phải làm thế nào để phân biệt được lời nào là của Phật nói, lời nào là của ma nói? Có những chúng sinh chạy theo hạnh ma, cũng có những chúng sinh thuận theo lời Phật dạy. Phải làm thế nào để biết rành hai loại ấy?
Phật đã dạy:
- Này Ca Diếp, sau khi Phật nhập diệt khoảng 700 năm, ma Ba Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hoại Chánh pháp. Ví như thợ săn, thân mặc pháp y. Cũng vậy, ma Ba Tuần sẽ giả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Cũng hóa thân thành Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Cũng hóa thân thành Phật. Ma vương mang thân hữu lậu hóa thành thân vô lậu để làm hư hại Chánh pháp...
Xưa, ma Ba Tuần có thể hóa thành Phật giống đến nỗi chính Tổ Ưu-ba-cúc-đa còn phải lầm3, huống là những hình tướng bên ngoài như Tỳ-kheo, La-hán, cư sĩ hay tiến sĩ Phật học v.v… Thứ có thể phân biệt là ở giới luật và trí tuệ. Vì thế Phật dạy cho Phật tử biết thế nào là lời Phật dạy, là lời ma nói để mà phân biệt. Không nên dựa vào hình tướng bên ngoài và cấp vị mà tin những lời phát ra đó là pháp Phật nói, là pháp như thật lý.
Phật dạy gì?
Về sự kiện Phật đản sinh
Nếu nói: “Bồ-tát ở cung trời Đâu Suất, chết rồi sinh vào cung vua Bạch Tịnh tại thành Ca-tì-la-vệ, nhân nơi ái dục của cha mẹ mà có thân. Không bao giờ có người nào sinh trong loài người mà được đại chúng cõi Trời Người tôn kính. Cũng nói, xưa kia tu khổ hạnh bố thí đầu, mắt, tủy, não, vợ, con mà đặng thành Phật…”, là ma nói4.
Nếu nói: “Đức Như Lai đã thành Phật từ lâu, vì muốn cứu độ chúng sinh nên nay mới thị hiện thành Phật. Vì tùy thuận theo thế gian nên thị hiện có cha mẹ, nhân nơi ái dục mà sinh”, là Phật nói.
Chỗ khác nhau ở đây là, một bên y nơi tướng mà nói, một bên y nơi tánh mà nói. Ma chỉ thấy được tướng Phật chết đây sinh kia, như phàm phu bị “phần đoạn sinh tử” trói buộc mà chuyển lưu. Không thấy được mặt ứng hóa thân của chư Phật, là từ pháp thân thường trụ, do ứng duyên mà hiện tướng ở cõi Sa-bà để độ sinh. Việc ứng hiện này, nhân là căn lành của chúng sinh đã gieo trong quá khứ, duyên là bi nguyện cao cả của chư Phật, nhân duyên đầy đủ thì tướng Phật (với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp) hiện cõi Sa-bà, đó là quả. Do ứng duyên mà hiện, là pháp nhân duyên, nên thân ấy sinh diệt theo nhân duyên. Đủ duyên thì hiện. Hết duyên thì không. Tuy sinh diệt nhưng không phải là Như Lai sinh diệt, chỉ là ứng hóa thân sinh diệt. Pháp thân Như Lai vẫn thường trụ.
Bởi chỉ thấy được tướng sinh diệt, nên cho rằng Như Lai do khổ hạnh, do bố thí đầu, mắt, vợ, con v.v… mà thành. Không thấy được đó chỉ là tướng thể hiện Như Lai đã chứng được pháp thân bình đẳng mà ra, tam giới không ngoài tâm, vạn pháp chỉ như huyễn, tất cả đều là huyễn thân, nên có thể xả đến chỗ tận cùng. Đại trí tuệ đã viên mãn thì đại bi mới tròn đầy.
Pháp thân thường trụ không do tác nhân, chỉ do liễu nhân5 mà thành. Không thể tu hành mà tạo ra pháp thân ấy, nhưng nhờ tu hành mà nhận ra và thể nhập lại pháp thân ấy. Như ngọn đèn không thể tạo ra đồ vật trong phòng tối nhưng có thể giúp ta thấy được đồ vật trong phòng tối. Giới, định, tuệ cũng như vậy, không thể tạo ra pháp thân, nhưng nhờ nó chúng ta nhận ra và thể nhập lại pháp thân ấy. Không thể chỉ có khổ hạnh mà thành Phật. Do bi nguyện, tùy căn cơ của chúng sinh mà Như Lai có pháp, thuận hay nghịch đều vì lợi ích cho chúng sinh. Như Quán Thế Âm có tướng nữ từ bi hiền dịu của mẹ hiền, nhưng cũng có tướng là Tiêu Diện Đại sĩ, lưỡi dài mặt đen của ác quỷ, nhưng đều là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Nếu nói: “Không nên tin Như Lai lúc mới sinh đi bảy bước”, là lời của ma.
Nếu nói: “Như Lai khi ra đời, hướng về bốn phương đi bảy bước, đó là phương tiện thị hiện”, là lời của Như Lai nói.
Với cái nhìn của người đời nay, việc sinh ra bên hông phải và đi bảy bước là việc không thể chấp nhận. Chư vị thiện tri thức có khi vì cái nhìn chưa thấu suốt này mà phương tiện thành không. Không hẳn chư vị đã cho là không.
Pháp thân vô tướng, do ứng cơ mà hiện thành tướng, nên tùy căn cơ chúng sinh mà cảnh sở hiện thấy có khác nhau. Con người sẽ thấy những gì thuộc về nghiệp thức của con người. Trời sẽ thấy những gì thuộc nghiệp thức của Trời. Cùng một cảnh giới mà phàm phu thấy thế giới này qua lăng kính của phàm phu, thánh nhân thấy thế giới này theo lăng kính của thánh nhân. Người thấy nước là nước nhưng ngạ quỷ thấy nước là máu6. Việc hiện tướng Phật cũng như thế. Cõi người không thể thấy con cái ra đời từ hông phải của mẹ, nhưng với chư thiên việc đó là thường. Phàm phu không thể thấy Phật đi bảy bước, nhưng thánh nhân thì không hẳn như vậy. Mọi hiện tướng nói trong kinh luận, không chỉ là cái thấy của người và phàm phu mà có cả chư thiên và thánh nhân. Vì thế, có thứ phàm phu thấy được mà có thứ phàm phu không thấy được. Như hiện nay, khi khoa học phát triển, đã chứng mình cho ta thấy có nhiều thứ ta không thấy được bằng mắt nhưng không có nghĩa là không có.
Việc “bình thường” và “không bình thường” này chỉ thể hiện mặt duyên khởi sâu xa mà Phật đã nói. Pháp thân Như Lai thường trụ, chỉ tùy căn cơ của chúng sinh mà thị hiện thân tướng. Đã tùy cơ mà hiện tướng thì không thể có một tướng cố định xuất hiện chỉ phụ thuộc vào cái nhìn của một loại chúng sinh. Đó là lý do vì sao xuất hiện nhiều tướng mà với tâm thức con người, là hư ảo, khó lường, nhưng Như Lai vẫn xác định việc đó có. Vì tất cả đều do ứng duyên mà thành sự. Chỉ do ứng duyên mà thành sự nên Như Lai nói “phương tiện thị hiện”. Nói “phương tiện”, vì do ứng cơ mà thành, không có chất thật. Nói “thị hiện” vì tùy nhân tùy duyên mà hiện tướng.
Nếu nói: “Trời sinh trước, Phật sinh sau, cớ sao chư thiên lại lễ kính Phật?”, là lời nói của ma.
Nếu nói: “Khi Bồ-tát giáng sinh, tất cả vua của chư thiên ở các cõi đều đến lễ lạy”, là lời của Phật.
Tướng Như Lai xuất hiện đó chỉ là hóa thân ứng với nghiệp thức của người và trời mà xuất hiện. Còn pháp thân Như Lai thì vô tướng, thường trụ. Trời hay người v.v… đều từ đó mà ra. Đó là lý do không thể y cứ trên tướng mà phân trước sau, cũng không thể y cái phân trước sau đó để nói đến sự tôn kính.
Lìa bỏ tâm tham dục
Nếu nói: “Lúc làm thái tử, vì lòng tham dục nên Bồ-tát lấy vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung”, là lời của ma.
Nếu nói: “Từ lâu, Bồ-tát đã bỏ lìa tâm tham dục, vợ con. Cho đến sự vi diệu của Tam thập tam thiên, Bồ-tát cũng coi như đàm giải, huống là sự vui ở cõi người? Bồ-tát cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo”, là lời Phật nói.
Do tham dục, chúng ta không có giải thoát, không thể sống lại được với pháp thân thanh tịnh của mình. Sắc, thanh, hương, vị, xúc đều là sở hiện của tự tâm, do bất giác mà hiện thành. Nhưng chạy theo lục trần thì bỏ mất bản tâm. Hợp trần thì bối giác. Cái hợp trần chạy theo đó là biểu hiện của tham dục. Vì thế, người tu, dù là tu để chứng La-hán hay để sống lại với pháp thân của mình đều phải từ bỏ tâm tham dục. Dù thị hiện có vợ con thì vẫn không có tâm tham dục. Chỉ do lòng bi mẫn mà thị hiện thân tướng như thế để độ sinh. Ma thì y tướng mà nói pháp để dẫn phát tâm tham ái của chúng sinh, muốn họ chìm sâu trong biển mê, không thoát được phiền não và sở tri chướng. Không thể giải thoát cũng không được Bồ-đề. Phật thì y tánh mà nói. Tuy thị hiện tướng tham dục mà không có tham dục, như kinh Duy Ma nói: “Hiện vào khắp các đạo để đoạn dứt nhân duyên”.
Người tu thời mạt pháp cần nắm vững việc này. Có thể vì nhân duyên trong đời chưa đủ cơ duyên để thanh tịnh thân tâm, nhưng đã muốn giải thoát và chứng Bồ-đề vô thượng thì hướng đến cũng phải như chư Như Lai, không có tham dục. Xác định được tinh thần này rồi, thì mọi tu hành hiện đời đều phải có phần hồi hướng cho việc dứt tham dục này. Đủ cơ duyên, trong tham dục mà không tham dục, trong biển sinh tử mà không có trần lao.
Hàng Bồ-tát ứng cơ vào cõi tham dục vì lợi ích cho chúng sinh, trước sau gì đều ở trong tham dục mà dứt hẳn tham dục, không tạo điều kiện cho tham dục phát sinh. Đối với việc lợi tha thì tùy cơ của chúng sinh mà nói pháp. Như người tại gia chưa có tâm tu giải thoát thì không nói đến việc từ bỏ tham dục, nhưng không có nghĩa là ca tụng tham dục, cũng không nói lời hủy hoại giới cấm để tạo điều kiện cho tham dục phát sinh. Tham dục ở đây không chỉ nói ở mặt ái dục mà chỉ cho tất cả các mặt còn lại thuộc sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Hiện nay vấn đề âm nhạc được phổ biến rất rộng trong Phật giáo. Không phải chỉ trong một vài buổi lễ mà còn cả trong những buổi tu tập. Có cảnh phụ nữ lớn tuổi và các cô gái mặc áo tràng múa may quay cuồng trước sự chứng kiến của quý thầy như là một pháp tu. Đây là thanh dục. Nói như thế vì thanh đã được tâm tham dục chấp thủ. Còn thanh, bản thân nó vốn như, không thể nói nó là thanh dục hay không thanh dục. Nhưng nếu chúng ta dùng nó như một pháp tu, tức mình đã sử dụng nó không đúng duyên, thì cũng có nghĩa là tham dục đã phát sinh, thanh lúc ấy trở thành thanh dục.
Vì âm nhạc vốn không phải là thanh dục nên có thể dùng nó để hướng người chưa biết đạo vào đạo, giúp các em thiếu nhi (cái tuổi chưa thể không mọi thứ, cũng chưa thể ý thức được gì về việc trừ bỏ tham dục) không thấy trống trải khi đến với đạo, có thể giúp các em thấy đạo vui hơn đời v.v… mà tiến lần lên đạo giải thoát của Như Lai.
Vì âm nhạc làm động tâm và có thể khiến phát khởi tham dục nơi mỗi người, nên với cái duyên là Sa-di thôi, chư Phật đã có giới cấm không được “Tự ý đi xem, nghe, hát, đàn v.v…”. Bài văn “Sám hối sáu căn” của vua Trần Thái Tông đã quở việc này. Trong các bài kinh thuộc hệ A-hàm cũng nói đến việc chư vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không nên sử dụng âm nhạc. Nên thời Hòa thượng Trúc Lâm còn giảng thuyết, dù khen âm nhạc cũng là một phương tiện dẫn đạo tốt, nhưng không có việc chư Tăng Ni hát hò trong các thiền viện.
Tuy vậy trong việc dẫn đạo hiện nay, nhất là với các em thiếu nhi, có khi phải dùng âm nhạc để dẫn chúng, nên chư Tăng Ni cũng phải dùng đến âm nhạc, một loại nhạc được gọi là nhạc đạo để giúp các em tiến dần vào đạo mà không thấy buồn tẻ. Việc dẫn đạo này đương nhiên phải được dùng đúng duyên, đúng đối tượng.
Với người đến với đạo vì hiểu biết, dù là tuổi trẻ, không cần dùng âm nhạc mới độ được họ thì không dùng âm nhạc để độ họ.
Việc dùng âm nhạc cũng được giới hạn trong một số Tăng Ni có trách nhiệm với việc này. Không phải là pháp truyền bá rộng rãi trong thiền môn thanh tịnh, giúp phát khởi chủng tử âm nhạc đã huân tập trong bao đời, chỉ nhờ duyên thanh tịnh bên ngoài mà tạm yên.
Âm nhạc được sử dụng đúng duyên thì mang lại lợi ích cho chính đối tượng đó. Không sử dụng nó đúng duyên, nó sẽ trở thành thanh dục, khơi dậy tâm tham dục trong mỗi người, không còn vì lợi ích cho chúng sinh nữa. Nếu sử dụng không đúng duyên, nó còn tạo điều kiện cho hàng chúng sinh căn cơ cạn mỏng không có ý thức ngăn dừng mà còn y đó phát tán chủng tử âm nhạc đã huân quá sâu trong tạng thức. “Thầy cô lớn còn hát được, sao mình không thể hát”. Tư tưởng đó chính là cái nhân giúp chủng tử âm nhạc ngày càng huân sâu, muốn từ bỏ rất cực. Không từ bỏ thì động tâm không thể dừng. Nếu là người xuất gia thì giới tướng, giới thể đều không thể giữ. Việc xuất gia cũng trở thành hạn chế đối với Phật tử mà chủng âm nhạc huân quá sâu.
Chúng tôi có duyên được chứng kiến một buổi chúc Tết của chư Tăng đối với Ni chúng. Tăng hát một bài để tặng và Ni đáp trả một bài. Việc một năm hát một lần trao tặng nhau bằng âm nhạc, xét theo giới luật thì không như pháp, nhưng chỉ một lần trong năm, không có sự tập dượt huân tập, thì không có gì nghiêm trọng. Có điều sự việc xảy ra khá lý thú.
Sau khi chư Tăng hát tặng rồi, chư Ni không ai biết hát, phải để một Ni, chắc mới xuất gia, hát đỡ một bài. Cô hát một bài của Trịnh Công Sơn, “Hãy yêu nhau đi!”. Không ai là không tái mặt. Chư Tăng có người bỏ ra về. Còn Ni nhỏ thì vẫn vô tư hát. Việc ấy chứng tỏ Tăng Ni không có tâm tham dục trong việc sử dụng âm nhạc. Nhưng nó để lại trong tâm tôi một sự nhắc nhở sâu xa: “Nếu không có cái nhân là việc hát tặng, dù là nhạc đạo, thì sẽ không có cái quả là cô Ni kia phát tán bài hát “Hãy yêu nhau đi!”. Điều đó có nghĩa là, với những người đã cứng cáp thì duyên thế nào cũng không mang lại quả xấu cho họ. Nhưng với những người tâm còn yếu đuối, cần môi trường thanh tịnh của tùng lâm để thanh lọc thân tâm, thì chúng ta phải cẩn thận từ những cái nhân rất nhỏ. Việc giảm bớt căng thẳng trong tu học khác với việc tạo điều kiện để tập khí sinh khởi. Nếu chúng ta sử dụng pháp không đúng duyên, xem thường những cái nhân nhỏ, không loại bỏ hay hạn cuộc nó ngay từ đầu, thì kết quả khó mà lường hết được. Từ đạo biến thành đời chẳng mấy chốc. Từ chỗ thanh tịnh biến thành tham dục chẳng khó khăn. Đó là bài học tôi nhận được từ việc chúc Tết ấy.
Vấn đề chứa chấp của cải…
Nếu nói: “Tại nước Xá-vệ, nơi tinh xá Kỳ-hoàn, vì lòng Đại từ thương xót chúng sinh, nên Phật cho Tỳ-kheo nuôi tôi tớ, voi ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng…”, là lời của ma nói.
Nếu nói: “Tại nước Xá-vệ, nơi tinh xá Kỳ-hoàn, trước vua Ba-tư-nặc và Bà-la-môn Cổ-chi-đức, Phật cấm Tỳ-kheo không được nuôi chứa tôi tớ, voi ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng… Người phạm vào các điều này thời không được ở trong hàng Tỳ-kheo, phải hoàn tục, như đám cỏ trong ruộng lúa cần phải nhổ bỏ”, là lời Phật nói. Người thuận theo đây chính là Bồ-tát.
Đây có mấy điểm cần lưu ý.
Một là địa điểm và thời gian lúc Phật nêu ý kiến này. Đó là vào thời Phật và tại đất nước Xá-vệ. Hai là nội dung tích chứa. Vào thời đó Tăng đoàn được sự hỗ trợ mạnh từ đông đảo quần chúng vua quan và lấy việc khất thực làm chính, nghiệp căn thân cũng nhẹ hơn, nên Phật đã cấm Tỳ-kheo làm các việc đó. Vì nó nuôi lớn lòng tham.
Hiện nay điều kiện xã hội và con người đã khác thời Đức Phật. Tăng đoàn hội chúng không còn đi khất thực mà tụ hội tu tập và bá tánh cần có chỗ nơi nương tựa. Vào những lúc mà điều kiện xã hội không được hanh thông, Tăng Ni phải tự trồng trọt hay mua bán để có thể tự tiếp tục việc tu hành, nuôi chúng và xây dựng chùa chiền. Vì thế không thể chỉ y nơi hình tướng quán xét sự việc mà phải y vào tinh thần. Việc tích chứa hay trồng trọt đó là do tham dục mà ra hay chỉ tạo điều kiện để Tăng Ni tu học được tốt hơn? Nếu trồng trọt mua bán chỉ là điều kiện để việc tu học của đại chúng được tốt hơn thì trồng trọt mua bán không lỗi. Nếu trồng trọt và mua bán chỉ để của cải tích chứa thêm nhiều, việc tu học bị phế bỏ, tập trung cho việc kiếm tiền, không khác gì người ngoài đời, chỉ mượn danh đệ tử Như Lai mà không hành việc Như Lai, chỉ làm vững mạnh thêm pháp thế tục thì đúng là lỗi. Nên Như Lai cấm trồng trọt, mua bán và bắt hoàn tục. Là để tránh quả xấu trong tương lai cho chính người đó.
Thị hiện vào tất cả cảnh giới mà không có tâm luyến ái
Nếu nói: “Bồ-tát thị hiện vào miếu thờ trời, ở trong pháp ngoại đạo xuất gia tu hành, thị hiện biết tất cả oai nghi lễ tiết, khéo hiểu tất cả văn tự kỹ nghệ, thị hiện làm bậc tôn quý nhất trong các giai cấp xã hội, dầu vậy Bồ-tát chẳng có lòng luyến ái, như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Vì độ chúng sinh nên Bồ-tát phương tiện thị hiện theo thế pháp. Những lời trên đây là của Phật nói, người thuận theo đây là Bồ-tát. Nếu nói trái lại là lời của ma và quyến thuộc của ma”, là lời Phật nói.
Pháp thân bất biến nhưng tùy duyên ứng cơ mà hiện tướng làm lợi ích chúng sinh. Đây là 32 ứng hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, 48 lời nguyện của Đức Di Đà, thệ nguyện độ sinh của Bồ-tát Địa Tạng v.v… Đều do bi nguyện mà thành.
Đây là dụng của hàng Bồ-tát pháp thân. Địa càng cao, ứng hóa thân các rộng.
Điểm đặc biệt ở đây là “Thị hiện làm các bậc tôn quý nhất trong các giai cấp xã hội” nhưng không có lòng luyến ái với giai cấp, địa vị mà mình đang có. Kinh Duy Ma nói: “Đến cảnh sắc và vô sắc mà không cho là thù thắng. Hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm. Hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sinh mình cũng như cầu đò v.v...”. Phu nhân Thắng Man trong mười Đại thệ nguyện cũng hiện rõ điều này: “Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ-đề, không vì mình mà nhận chứa tài vật. Phàm có thọ nhận, đều vì thành thục chúng sinh bần khổ”, hoặc “Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ-đề, hành Tứ nhiếp pháp mà chẳng cầu báo đáp, dùng tâm không tham, không lợi, không nhàm đủ, không ngăn ngại mà nhiếp thọ chúng sinh”.
Do không nắm được lý “duy tâm sở hiện” mà Phật Tổ đã nói, nên có người cho rằng lợi ích của Phật pháp chỉ hạn cuộc trong việc tu hành, không mở rộng được như ở các đạo giáo khác. Đó là vì nghiệp thức của chư vị chỉ nhìn thấy được mặt nổi của vấn đề, không thấy được mặt sâu xa của sự việc. Tất cả đều có thể là hiện thân của Bồ-tát và Phật ở khắp tất cả chỗ. Các vua đời Trần thể hiện việc độ sinh mở rộng này một cách rõ ràng nên chúng ta có thể thấy được rõ ràng. Nhưng với những người mà hình thức của họ không mang tính đạo giáo như Hồ Chí Minh v.v… thì chúng ta không thể hình dung, nên không thấy được mặt lợi ích của việc tịnh tâm, thiền định, chứng lại pháp thân thường trụ, để có thể sử dụng mặt ứng hóa thân này rộng khắp.
Tóm lại, bất cứ ai vì lợi ích chúng sinh, giúp chúng sinh thoát khổ thành công, dù chỉ một giai đoạn v.v… đều là hóa thân của Phật và Bồ-tát đối với chúng sinh đó.
Tin kính kinh điển Đại thừa
Nếu nói: “Người cố chấp chín bộ kinh luận mà không chịu tin kinh điển Phương đẳng Đại thừa, cho rằng không phải Phật nói, vì trong kinh luận của họ không có nói đến, phải biết người này có tội, không phải là đệ tử của Phật. Nếu có người tin kinh điển Đại thừa, cho rằng vì độ chúng sinh nên Như Lai nói kinh điển Đại thừa. Người này chính là đệ tử của Phật”, là lời Phật nói.
Các bộ kinh thuộc hệ A-hàm, được chư vị cổ đức xếp vào cái gọi là kinh luận Nhị thừa. Các bộ kinh như Lăng-già, Lăng nghiêm, Hoa nghiêm v.v… là những bộ kinh nói đến Phật tánh, đến pháp giới Hoa nghiêm, được chư vị xếp vào cái gọi là kinh Đại thừa Phương quảng. Với chư vị, tất cả đều là kinh Phật nói; chỉ là tùy thời, tùy căn cơ của chúng sinh mà giả lập, cũng y đó mà ẩn hay hiện.
Người đời sau, có người quả quyết Phật chỉ nói 5 bộ kinh thuộc hệ A-hàm, còn lại không phải Phật nói. Người thì kinh Đại thừa cũng bác mà kinh Nhị thừa cũng chê, dù khoác áo Tăng-già.
Tôi có một nhân duyên khá tốt giúp tăng trưởng niềm kính tin đối với kinh điển Đại thừa.
Do nhân duyên đời quá khứ, tôi gặp được pháp Đại thừa đốn giáo do Hòa thượng Trúc Lâm giảng dạy qua những cuốn sách quay ronéo bán ngoài chợ trời, thông qua ông bạn đời của mình. Củng cố niềm tin nhiều hơn là nhờ vào những cảnh giới chứng. Trong việc tu tập, tuy gặp nhiều chướng duyên từ thân tâm, nhưng sau mỗi lần khổ nhọc, cố gắng, tôi lại được chứng nghiệm những cảnh giới đã nói trong kinh điển. Hiểu rõ những thứ mà trước khi có sự tu tập, tôi không hiểu được. Nên niềm tin đối với kinh điển Đại thừa được củng cố mạnh.
Thêm một tác nhân quan trọng nữa, đó là Sư Hưng. Nhân duyên tôi gặp Sư khá kỳ quặc.
Sư vào trại cải tạo chung với ông bạn đời của tôi. Ngày đó ông bạn tôi vượt biên, Sư thì vào vì phát biểu linh tinh. Hai ngày sau Sư báo với người bạn là Sư sắp ra khỏi trại, muốn gặp tôi. Sư được người cậu bảo lãnh ra thật, rồi thuê xe về thẳng nhà tôi, bắt tôi trả tiền xe và quỳ nhận Sư làm thầy. Tôi không thích nhưng vẫn phải quỳ xuống lạy Sư. Tôi không gặp Sư thường xuyên, vì Sư ở mãi Long Xuyên, Sa Đéc. Tôi không thích phong cách của Sư, vì Sư bắt tôi quăng con gái qua một bên khi nó đang khóc ngất, không một chút động lòng. Nhưng mỗi lần tôi có việc buồn, Sư đều xuất hiện rất đúng lúc. Sư là người đầu tiên nói với tôi “Bỏ tất cả, con sẽ được tất cả”.
Việc thứ hai khiến tôi không thích Sư nữa là Sư đụng đến phần ngã sở của tôi. Sư chê Sư ông Trúc Lâm là “Đi đâu, Phật tử cũng theo đông quá”. Có điều Sư lại khen Thầy: “Chưa bao giờ thấy ai có cái tướng hảo quang minh như Nhật Quang”. Có lẽ do một chút đó mà tôi còn dính tới Sư.
Chính Sư là người đã giải mã chỗ Tiểu thừa - Đại thừa này cho tôi, giải tỏa rõ ràng pháp Thiền đốn giáo mà tôi đang tu tập.
Sư nói với tôi Sư thuộc hệ phái Tiểu thừa. Tôi cũng thấy Sư sống đời sống khất sĩ thời Phật. Đầu trần, chân đất, ngày ăn một bữa. Ngoài chiếc y quấn trên người, Sư không có gì nữa. Nay ngụ chỗ này, mai ngụ chỗ kia, không hề có tiền trong túi. Ngày đó tôi không biết cái gì là Tiểu thừa, Trung thừa hay Đại thừa. Chỉ do đang tu nửa chừng thì gặp một người bạn, nói đừng tu pháp đó nữa, pháp đó là của mấy ông bên Trung Hoa, không phải của Phật nói. Vì lời nói ấy, tôi mang ra hỏi Sư. Coi Sư có nhận định thế nào về lời nói của cô bạn.
- Thiền Đốn giáo có phải của Phật nói không Sư?
Sư không trả lời mà hỏi ngược lại tôi:
- Con có nghe tích Phật truyền nửa tòa ngồi cho ngài Ca Diếp?
Tôi gật đầu. Sư trả lời:
- Ca Diếp là Tổ đầu tiên của thiền Đốn giáo. Truyền qua 33 vị.
Một câu trả lời đó đủ xác minh cho tôi thấy “Thiền đốn giáo” là một phần trong pháp Phật đã nói.
Sau này có ít định lực và trí tuệ rồi, tôi nhận ra tính nhất quán từ kinh tạng Tiểu thừa cho đến Nhất thừa. Tuy nhất quán mà vẫn không nhất quán. Không nhất quán mà nhất quán. Cái nhất quán là mặt bất biến của pháp. Cái không nhất quán là mặt tùy duyên của pháp. Trong Nhị thừa ngầm ẩn Đại thừa. Trong Đại thừa ngầm có Nhị thừa.
Phải nói, chỉ với hệ thống kinh luận của Nhị thừa, không đủ để giải mã những gì mà khoa học và triết học đang bế tắc. Chỉ một vòng mắt xích Thập nhị nhân duyên, nếu không có phần Duy thức học thì không giải mã được tính hợp lý của chuỗi nhân quả đó. Vì thế, chối bỏ kinh điển Đại thừa chỉ khiến Phật pháp trở nên yếu kém trước những bước tiến vượt bực của thời đại. Đúng là có tội với chư Phật.
Thứ mà tôi thích nhất được nói trong các kinh điển Đại thừa, là dù tu pháp Đại thừa chăng nữa thì rốt cuộc “Đại thừa là không chấp vào Đại thừa, cho đó là nhất, là thật, mới là Đại thừa”. Rất bình đẳng, không thiên lệch pháp mình, pháp người. Tất cả đều phải xả bỏ để trở về chỗ vô trụ. Nó không mang tính thiên lệch cố chấp cho pháp mình tu mới là nhất, là của Phật nói. Mọi thứ nếu có chỉ là pháp đối trị. Như có bệnh thì cho thuốc, không bệnh thuốc không dùng. Tu Đại thừa mà phải dùng pháp Tiểu thừa mới trị được bệnh thì dùng pháp Tiểu thừa v.v... Tôi thích tính bình đẳng ấy của Đại thừa. Tất cả pháp đều là Phật pháp, khi chúng ta biết sử dụng pháp đúng duyên.
Đức tướng của Như Lai
Nếu nói: “Như Lai không phải là kết quả của vô lượng công đức, là vô thượng biến đổi, do chứng pháp không nên tuyên nói lý vô ngã, chẳng thuận với thế gian”, là lời của ma. Tin lời này là quyến thuộc của ma.
Nếu nói: “Như Lai là bực Đẳng chánh giác không thể nghĩ bàn, là kết quả của vô lượng công đức, là thường trụ không biến đổi”, là lời Phật nói.
Như Lai là pháp thân thường trụ, không do tạo tác mà thành, nên không do tu hành mà được. Nhưng nếu không tu hành, không có thánh hạnh thì không thể bối trần hợp giác mà ngộ nhập lại tri kiến Như Lai trong mỗi chúng sinh, nên Như Lai tuy là thường trụ mà vẫn là kết quả của vô lượng tướng công đức.
Hành giả tu hành, nếu không có sẵn Phật tánh thì tu hành vô lượng kiếp cũng chẳng thành Phật, như sâu có gốc là bướm thì đủ duyên mới hóa bướm được. Nếu có sẵn Phật tánh mà không chịu khó thanh lọc nhiễm ô có từ thời vô thủy thì Phật tánh dù có, cũng không thể hiển cái dụng nhiệm mầu của nó. Cho nên, tuy biết mình có sẵn Phật tánh, dù ở phàm không giảm, ở thánh không tăng, nhưng không vì thế mà không tu, không hành thánh hạnh. Kinh Niết-bàn tập I, phẩm Tài chánh nói: “Tôi đã thành Phật vì tôi có Phật tánh. Người nói lời này phạm tội Ba-la-di. Vì dầu có Phật tánh, nhưng chưa tu tập các pháp lành, nên chưa được thấy. Vì chưa thấy Phật tánh, nên chẳng thể thành Phật”.
Giới là của Phật chế
Nếu nói: “Không có bốn trọng tội, mười ba tội Tăng tàn, hai tội bất định v.v… Nếu có Tỳ-kheo phạm các tội trên đây mà đọa địa ngục thì hàng ngoại đạo lẽ ra đều sinh lên cõi trời, vì ngoại đạo không thọ giới, nên không có giới để phạm. Đó là Như Lai muốn khủng bố người nên nói các điều giới ấy. Nói bị đọa vào địa ngục cũng là khủng bố người. Đây là các nhà luật sư vọng nói mà cho là lời Phật chế. Kỳ thật không phải do Phật chế…”, là lời ma nói.
Nếu nói: “Chẳng nên thân cận người phủ nhận nhân quả. Chánh pháp của Phật trong sạch như vậy, sao phạm vào Du-lan-giá hoặc Tăng-tàn hoặc Ba-la-di mà chẳng phải là tội? Thế nên phải tự giữ gìn những giới pháp như vậy. Nếu không giữ gìn thì lấy gì gọi là cấm giới? Trong các kinh Như Lai đã nói, nếu phạm giới thời phải theo luật mà trị. Dù tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng phải do nơi trì giới rồi sau mới được thấy. Do thấy Phật tánh mà được thành Vô thượng chánh giác. Nếu không trì giới sao có thể thấy được Phật tánh?”, là lời Phật nói.
Khi Như Lai sắp nhập Niết-bàn, A Nan thưa sau này chúng sinh sẽ y chỉ ai làm thầy? Như Lai nói lấy giới làm thầy. Thì hiểu giữ giới quan trọng thế nào.
Giới là một trong ba vô lậu học Giới - Định - Tuệ. Không phải khi nào có giới là lập tức có định, nhưng nó là điều kiện tiên quyết có thể làm phát sinh định. Vì thế muốn có định tuệ thì phải giữ giới nghiêm cẩn.
Chúng sinh có sẵn Phật tánh nhưng không thể nhận ra, cũng không dùng được tướng và dụng của nó như chư Phật, vì bị lực của dòng tập nghiệp lôi kéo. Như biển nổi sóng, cứ theo sóng mà quên mất tánh ướt của biển. Muốn dừng được lực ấy, hành giả phải có sức định. Muốn có sức định thì phải giữ giới nghiêm túc. Giữ giới nghĩa là giữ không cho những chủng tử trong tạng thức hiện hành tương tục trong tâm. Do duyên ấy mà dừng được dòng nghiệp lực. Phật tánh có điều kiện hiển bày.
Hỏi: Vậy sao Tuệ Trung thượng sĩ lại nói “Giữ giới cùng nhẫn nhục/Chiêu tội chẳng chiêu phước?”7
Đáp: Vì Trần Nhân Tông không có giới để phạm. Nếu chấp vào giới thì không thể nhập được chỗ vô trụ. Nên Tuệ Trung thượng sĩ nói giữ giới cùng nhẫn nhục là chiêu tội. Đó là tùy cơ mà có pháp. Nó có tác dụng “nhổ đinh, tháo chốt” cho những ai đang bị kẹt. Một trong những phương pháp khai thị đặc thù của Thiền tông. Cho nên, dạy xong Tuệ Trung thượng sĩ dặn “Không nói cho người không ra gì biết”. “Người không ra gì” là người mà giới và nhẫn vẫn cần để đối trị các tật xấu của thân tâm.