;
Là một cư sỹ sơ cơ nhưng tôi lại có 1 suy nghĩ rất hồ đồ và ngu xuẩn khi tự đặt câu hỏi rằng trong mùa an cư kiết hạ này có bao nhiêu phần trăm quý thầy, quý sư cô, nói cách khác là các nhà sư đang toàn tâm, toàn ý, tập trung 100 % tâm trí cho tu học của mùa an cư kiết hạ trong suốt 3 tháng, từ rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 sắp tới. Tôi cứ hồ đồ nghĩ rằng, có khi chưa nổi 80% quý sư đang thực sự toàn tâm tu học. Tôi lại lẩn thẩn suy nghĩ, liệu có quý thầy quý sư cô nào tham gia trường hạ chỉ để “ghi điểm”, chỉ để có thêm tuổi hạ, chỉ để được lên Thượng tọa, Hòa thượng hay không. Liệu có quý thầy quý sư cô nào mong hết hạ để được ra để còn đi cúng hay không. Sẽ phước đức vô cùng cho Phật giáo Việt Nam nếu như hơn 90% quý thầy quý sư cô tập trung 3 tháng này để hết mình tu học, để thực hành lời Phật dạy, cho chính mình, để giác ngộ và giải thoát, để sau khi kết thúc mùa an cư về chùa mình hoằng pháp. Nếu không như vậy có thể Phật giáo biến thành cơ hội giáo mất.
Tôi lại lẩn thẩn suy nghĩ rằng liệu có nhà sư nào đang kiếm tiền trong ngôi chùa mà quý thầy quý sư cô đang tu tập hay trụ trì hay không. Tôi vẫn nghĩ rằng không, hoặc nếu có thì rất ít, bởi khi đã có chí nguyện xuất gia thì đâu có màng đến tiền tài danh vọng nữa. Bởi hơn chúng tôi, những cư sỹ tại gia, quý thầy biết rất rõ đó là những con rắn độc. Mà nếu như nhà sư còn kiếm tiền trong chùa là có vẻ như đi lạc hướng và tiếp tay biến Phật giáo thành cơ hội giáo mất rồi.
Người đàn ông (ngậm thuốc lá) là một vị Tỳ kheo !? (ảnh minh họa cắt từ video clip)
Tôi viết ra như vậy vì nghe anh bạn tôi kể rằng có một vị sư kia mời anh đến và dạy cho anh cách kiếm tiền. Sư bảo, thầy mới xây bức tượng Phật này 1 phần và để dở dang. Rồi thầy mời các Phật tử, nhất là các doanh nhân, lãnh đạo đến thầy ra để thuyết trình và thế là người ta đua nhau mang tiến đến cúng. Tôi thật sự giật mình và không tin. Làm sao mà tin được chuyện vô lý này cơ chứ. Xuất gia để tu chứ đâu phải để làm chùa to, Phật lớn. Xuất gia tức đâu có màng đến kiếm tiền, quyên tiền. Xuất gia tức phải tùy duyên thuận pháp chứ.
Tôi đến thăm rất nhiều số ngôi chùa, từ Nam ra Bắc. Một quan tâm của tôi là chùa đó có tam tạng kinh điển hay không, các quý thầy có đọc hay không, các Phật tử đến có đọc hay không, và ai đọc. Và các khóa tu có tổ chức thường xuyên không. Các buổi giảng pháp ở chùa đó có diễn ra đều đặn hay không. Tôi hơi buồn khi thấy có những chùa không có đủ bộ kinh Nikaya. Chuyện như đùa đúng không ạ. Tôi lấy làm tiếc khi có những chùa không giảng kinh, không tổ chức khóa tu cho Phật tử. Và chắc bạn đang đọc những dòng này cũng không tin. Còn đáng tiếc hơn nữa vì có những ngôi chùa có cả những bộ kinh đồ sộ nhưng còn mới tinh, không ai đọc. Cứ như rằng đó là đồ trưng bày trong viện bảo tàng. Nếu thật như vậy thi có khi Phât giáo tuyệt diệu khó bề phát triển.
Bạn tôi bảo, một số nhà sư chuyên chỉ lễ bái, rồi đi cúng. Như một nghề. Suốt ngày đêm cúng lễ. Anh ấy rất ít thấy sư ngồi thiền hay đọc kinh điển. Tôi nghĩ rằng bạn ấy nói đùa hay không hiểu đúng sự thật mà thôi. Mình là cư sỹ làm sao biết được chuyện của các thầy.
Lại nói đến chuyện thờ ai trong chùa. Câu hỏi nghe có vẻ ngớ ngẩn và có khi tôi ngớ ngẩn thật. Chùa là thờ Phật. Phật ở đây dĩ nhiên là Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Giác ngộ, đã giải thoát. Phật Thích Ca là người thầy đã tìm ra con đường và chỉ cho chúng ta cách thoát khổ. Vậy chùa là thờ Phật Thích Ca. Ấy vậy mà có những chùa thờ quá nhiều tượng. Thậm chí có chùa thờ cả vua, quan, tướng. Thậm chí có chùa thờ cả ông nọ bà kia. Những ai không phải là Phật, có lẽ nên thờ ở đền, miếu thì đúng hơn. Nếu không, tôi nghĩ, Phật giáo sẽ biến thành cơ hội giáo mất thôi. Phật giáo là giáo dục. Phật giáo khác xa tín ngưỡng.
Một người quen của tôi cam kết rằng có những vị sư ăn thịt chó, uống rượu. Mà là thường xuyên. Thậm chí còn xúi Phật tử giết gà để sư cúng cho. Tôi nghĩ rằng cậu ấy bịa. Làm gì có chuyện. Đã xuất gia rồi thì tâm quý thầy rất từ bi, sao có thể ăn thịt chúng sinh nhất là xúi dục cư sỹ sát sinh được. Chẳng lẽ vẫn có chuyện “Tối uống sâm banh, sáng sữa bò” nơi chốn tu hành này ư?
Một chúng sinh bị cắt đầu dâng trước bàn thờ để "người đàn ông" mặc y áo tu sĩ Phật giáo cúng bái. (ảnh minh họa cắt từ video clip)
Tôi lại nghĩ, ở chùa nên dùng tiếng gì để viết các câu đối, các bức thư pháp, các thông tin. Chùa là để hoằng pháp và cho Phật tử đến tu tập. Vậy dĩ nhiên phải là tiếng Việt. Người Việt, nhất là giới trẻ cần tiếng Việt để học, để hiểu và để hành. Vậy mà nhiều chùa, nhất là ở miền Bắc vẫn dùng chứ Hán, chữ Nôm chẳng đọc được, không hiểu viết gì. Tôi có hỏi 1 quý thầy tại sao không viết tiếng Việt vì chùa mới xây. Thầy bảo, phải dùng chữ Hán, chữ Nôm cho nó cổ kính. Trời ơi, thế thì có khi ngay cả các sư trụ trì và các thầy tu ở đó cũng không hiểu. Tôi giật mình: Thế thì chúng ta đang biến chùa thành bảo tàng chứ không phải là nơi tu tập mất rồi. Nếu cứ thế này đạo Phật sẽ thành đạo gì, Phật giáo sẽ thành gì giáo.
Tôi thực sự thực sự khâm phục Hòa thượng Thích Thanh Từ đã khôi phục lại được dòng thiền Trúc Lâm của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tôi bái phục cố Hòa thượng Thích Minh Châu đã dịch toàn bộ kinh Phật ra tiếng Việt. Tôi muốn đảnh lễ hàng ngàn lần Hòa thượng Thích Nhất Hạnh vì đã làm sống lại Phật giáo, mang Phật giáo đến với giới trí thức và thế hệ trẻ trên toàn thế giới. Tôi rất tâm huyết với những việc làm rất cụ thể và thiết thực với giới trẻ của Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm với chùa Bằng ở Thủ đô Hà Nội. Tôi vô cùng thích cách hoằng pháp và những việc làm vô cùng kỳ diệu và nhiệm màu của quý thầy trẻ hơn: Thầy Thích Phước Tiến và chùa Tường Vân, thầy Thích Chân Tính và chùa Hoằng Pháp, thầy Thích Nhật Từ và chùa Giác Ngộ, thầy Thích Minh Đồng và chùa Hưng Khánh, sư cô Thích Quảng Khiết và chùa Tứ Kỳ của Hải Dương, thầy Thích Tâm Phương ở Phật giáo vùng miền núi huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế... Và còn bao nhiêu quý thầy quý sư cô đang làm đúng (chứ không làm trật), làm hết mình như những quý thầy này. Nếu trên 80% các ngôi chùa trên cả nước, nếu trên 80% quý thầy quý sư cô tu tập đúng, hoằng pháp đúng thì là phước báu của dân tộc Việt Nam ta rất lớn. Còn nếu sai, nếu trật thì Phật giáo sẽ đi về đâu.
Tôi là 1 cư sỹ rất sơ cơ nhưng thường xuyên nghe pháp thoại, đọc kinh, nghe kinh. Tôi cũng đang khuyến khích người thân, bạn bè, đồng nghiệp và các học trò như vậy. Bởi nếu không, đến ngày nào đó kinh sách sẽ thành nắm xương khô nằm trong viện bảo tàng. Và như vậy Phật giáo sẽ đi về đâu.
Tôi ngồi và luôn nghĩ đến câu trả lời của Thủ tướng Nhật Bản khi được hỏi tại sao ở Nhật nhiều chùa thế. Ông bảo rằng có nhiều chùa để bớt đi nhà tù. Mà nước Nhật là thế thật. Không chỉ có nhiều chùa to tượng lớn mà Nhật Bản còn có hệ thống quý Tăng Ni tài năng đức độ nữa. Thế mới đủ, mới đúng. Nếu không chùa lại thành bảo tàng hay nơi du lịch tâm linh để kinh doanh chứ không phải nơi tu tập. Tôi mong ước và mơ đến một ngày nào đó sẽ nghe được những tuyên bố phục hưng Phật giáo như vậy từ lãnh đạo cao cấp nhất của nước Việt Nam. Và khí đó nước ta, dân tộc ta chắc chắn được quay lại thời Lý Trần tuyệt vời.
Chiều chủ nhật tôi ngồi từ 14h đến 17h30 để hàn huyên với một anh bạn quen chưa lâu tên là Nam. Anh bảo tôi rằng nếu một người đun, trăm người quạt thì không bao giờ nước sôi có thể nguội được. Chi bằng dập lửa đi và rút củi ra. Anh ấy rất mong rằng số lượng người ủng hộ chánh pháp ngày càng tăng lên, số lượng chùa thực sự tu tập và hoằng pháp tiến dần đến con số 100%.
Tôi tự nhiên nhớ đến chùa Quán Sứ của thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến của chúng ta. Mà nghĩ đến Quán Sứ tôi không thể không nhớ về cố Hòa thượng Thích Trí Hải. Công lao của Hòa thượng lớn vô cùng và chắc rằng ai cũng đã biết. Tôi chỉ muốn kết thúc bài viết này bằng những câu nói chí tâm, chí cốt, từ đáy lòng Hòa thượng. Chỉ 4 câu thôi mà tôi luôn giật mình thon thót mỗi khi ngồi nhớ lại để nhắc mình cần phải làm gì. Mỗi ngày.
“Những phường phái đạo ta đây
Nào đâu có phải ma này, quỷ kia
Trùng sư tử chẳng lìa sư tử,
Đục cho cùng cả bộ xương hom”.
***********************************************************************
Bài viết liên quan:
Không thể để các thầy cúng thao túng cửa chùa!
Trong Phật giáo không có thầy cúng, nhưng do trong quá trình du nhập vào một vùng mới, vì tính dung hoà và giản dị, Phật giáo đã chấp nhận những hình thức cúng bái ngẫu tượng và phong tục thờ cúng địa phương, vì thế những loại hình cúng bái do nhu cầu xã hội bắt đầu bén rễ.
Thầy cúng mượn nhiều hình thức để thu hút sự chú ý và mở rộng dịch vụ tín ngưỡng thờ cúng và phương thức sinh nhai của mình một cách hiệu quả hơn, nên đã bỏ quên và bất chấp sự suy thoái đạo đức và tinh thần xuất gia giải thoát của một tu sĩ. Trong đó có nhiều hạng thầy cúng mang hình thức một tín ngưỡng địa phưong, hay của một tôn giáo khác, trong đó điển hình là của Phật giáo và Đạo giáo.
Trong nhiều thời kì đen tối của Phật giáo thì cũng do thầy cúng gây ra, khi họ đã đưa hình thức cúng vái vào công việc tâm linh để vận hành thế giới của họ thì sự đảo lộn xã hội là một điều chắc chắn, đạo đức cũng từ đó suy đồi, vì bản thân của sự cúng vái không giải quyết một sự thật nào cả, mặt dù có khi được xem là một hình thức nghi lễ tôn giáo hay an ủi người sống, tất cả điều bị lầm lẫn, lầm lẫn ở đây là vô tình đẩy xã hội rơi vào tay của tà giáo. Mà như chúng ta biết, ngày xưa khi xã hộị và trật tự xã hội bị rơi vào tà giáo thì kết quả xã hội ấy đầy thảm hại, mà con người trong xã hội ấy muốn vựt dậy cũng khó.
Hiện nay, thầy cúng hầu hết họ đều tập trung ở đô thị mà chẳng thèm đến vùng nông thôn nghèo khó, vì ở đó không có ai mời cúng. Đồng thời khi xã hội được bày biện bởi sự cúng cấp thì cũng sinh ra nhu cầu của nó, vì thế xã hội cũng chỉ cần thầy cúng là đủ. Vì vậy vai trò của chánh giáo dễ bị đánh tráo, hiểu nhầm và dễ bị kẻ lợi dụng gây tai hại cho xã hội và cho Phật giáo. Hãy nhìn vào Phật giáo Hàn quốc là một ví dụ điển hình, Phật giáo chính thống không đủ sức mạnh để đẩy lùi lực lượng thầy cúng ở đây, đã có gia đình và mọc rễ trong cảnh chùa chiền.
Hơn thế nữa, hầu hết những chức sắc tôn giáo đều do họ nắm giữ, bởi những lí do rất đơn giản mà xã hội đã tạo nên, đó là giàu có về tiền bạc, sở hữu về vật chất, truyền bá mê tín và những trang phục đắt tiền. Ngoài ra cũng hơn 90% chùa chiền đều do họ nắm giữ cương vị trú trì, để dễ dàng hoạt động phục vụ tín ngưỡng cúng vái.
Ở trong chùa, một tu sĩ mới nhập môn cần phải trải qua các thời kì đi cúng, đến nỗi không cần học cũng biết nghề, vì sự lập đi lập lại quá nhiều, đến nỗi không còn thời gian để tu học và thực hành. Rồi từ đó họ nghĩ rằng đi cúng cũng là một cách hành trì. Thật nguy hại hết sức.
Thế rồi Giáo hội khi cần đến cơ sở hạ tầng để phục vụ cho giáo dục thì hỡi ôi không còn cơ sở nữa, mà muốn có cơ sở mới thì không đơn giản tí nào. Một cơ sở Giáo hội do bởi một lí do khách quan tạo thành một ngôi chùa, thì từ đó không còn cơ hội để trở lại mục đích ban đầu mà trở thành một trung tâm phục vụ việc cúng vái, chánh điện làm nơi thờ các loại hình tín ngưỡng dân gian, nhà linh nhà cốt ngênh ngang, suốt ngày pháp hội, chẳng thấy một từ giáo lí, mặt dù đọc trong bài cúng thì ngôn từ bằng chữ tàu dù có ngụ ý Phật pháp cũng chỉ là bài ca bài thán sơ sài.
Lại nữa, khi xã hội được vận hành bởi mục đích vật chất thì sức mạnh của nó là tiền bạc, những thứ này vốn tự con người tạo ra chứ không có tội gì cả, là phương tiện trao đổi, thể hiện tính văn minh của con người, thế nhưng nếu không biết cách sử dụng vật chất và tiền bạc, con người sẽ trở thành kẻ nô lệ. Trong bất cứ môi trường nào, kể cả trong tôn giáo, khi thầy cúng đã nắm toàn bộ cơ sở vật chất, có sức mạnh về tiền bạc, có chức có quyền thì dĩ nhiên sự điều hành của họ cũng theo thiên hướng cúng tế.
Một thực tế cho thấy, hầu hết các lễ hội trong Phật giáo đều một hình thức như nhau, thí dụ, một hội thảo khoa học cho Phật giáo hình thức chẳng khác mấy một đám tang của tu sĩ, hoặc một buổi lễ hội tín ngưỡng cũng chẳng khác mấy một lễ chẫn tế. Nội dung không có gì nêu bật ý nghĩa của tổ chức, ngược lại vai trò của “thầy cúng lên ngôi”. Vì trong chương trình của những buổi lễ này toàn là nghi với lễ, đón với rước, lọng che kèn trống om xòm. Mở đầu cho một buổi lễ như vậy bằng một lễ “hưng tác thượng đại tràng phan”, thì thật còn gì là một buổi hội thảo khoa học. Kết thúc chương trình là “đăng đàn chẩn tế”. Thử hỏi có ai đặt vấn đề này với Giáo hội với các chức sắc mà đã được gọi là “tôn sư”, nhưng thực tế họ là những “pháp sư” cúng dạo.
Một sự thật cay đắng là khi đi tham dự lễ thì cho dù là vị đó ở địa vị nào cũng phải đến tham dự, hoặc bằng phương tiện tự túc, hoặc tập trung để cùng đi bằng phương tiện số đông, thế nhưng thầy cúng thì Giáo hội phải đón rước bằng xe hơi, đến từng chùa, lo tiếp đón long trọng. Chờ cho những bậc thầy cúng này xong phần tiếp đón, vớ tất giày hia, mũ mão đường bệ, y áo gấm lụa, thừ thừ theo kèn trống rinh rang “quang lâm” thì cũng đã quá trưa, vừa mất thời gian, vừa tốn kém, vừa không có lợi gì cho việc tu tập giải thoát.
Trong thực tế, khi phát tâm xuất gia người tu sĩ Phật giáo mong muốn có được một cơ hội học hỏi và tu học cho mục đích giải thoát, thế nhưng do nhu cầu xã hội và hình thức cúng vái đã biến chuyển phẩm chất của họ, rồi họ bỏ học sang đi cúng, thấy lợi trước mắt chứ không thấy được giá trị của con đường giải thoát mà Đức Phật đã dạy. Có lúc không cần tu học mà bước vào con đường đi cúng lấy tiền, có lúc bỏ học để đi cúng, hoặc chuyển hẳn sang nghề đi cúng, nhưng họ không hề hay biết, hoặc không may mắn vào xuất gia với thầy cúng hoặc trong chùa chuyên đi cúng, vì vậy mục đích của họ dần dần bị biến tướng và quên hẳn lí tưởng giải thoát. Nhưng tệ hại nhất là hình thành một ý thức hệ đi cúng, có vai vế và có địa vị trong giáo hội tại địa phương. Đây là một trong những tai hại của Phật giáo, thậm chí làm cho vai trò tôn quí của sự giải thoát bị lu mờ, Phật giáo lâm vào cảnh thế tục hoá.
Sự lạm dụng hình thức cũng như các hoạt động của thầy cúng đã đi đến sự xáo trộn trật tự trong Phật giáo. Việc đi cúng được họ gọi là làm Phật sự hay Pháp sự, đi cúng được cho là phương pháp hành, rồi từ đó chê bai hiềm khích tu sĩ biết học, biết tu và biết cố gắng bằng những ngôn từ miệt thị như “tiến sĩ” không bằng “tiến linh”, “đi tu không bằng đi cúng”… Còn trao đổi và nói chuyện thì ngôn ngữ của họ khỏi phải bàn…
Về từ ngữ “thầy cúng”, Tự Điển Việt Nam của soạn giả Lê Ngọc Trụ giải thích là “tiếng gọi một cách mỉa mai những thầy chùa chuyên làm đám ăn tiền chứ không thiết gì đến kinh kệ, giáo lý nhà Phật”. Hiện nay thì số thầy cúng chiếm được chùa, cuộc sống hưởng thụ vật chất, trong lúc đó tu sĩ quan tâm đến đạo Pháp thì bị chèn ép, lại thiếu cơ sở để làm Phật sự. Thời gian dành cho việc tụng đọc kinh điển Phât giáo của những thầy cúng rất ít, họ toàn lợi dụng kinh điển của Đức Phật là “Phật sự siêu độ người chết”, cho rằng đây là Phật sự. Cho nên vừa nghe nói đến tiếng “Phật sự” là rất dễ sinh ra hiểu lầm. Những việc siêu độ vong linh này ở trong Phật giáo xuất hiện rất trễ …, rất trễ, thời xưa ở Ấn Ðộ chẳng có, sau khi truyền đến Trung quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có, nhưng sau đó do ảnh hưởng Lão giáo mà phát triển và thịnh hành, rồi lan rộng sang Việt Nam.
Chúng ta cần nhận định rõ vấn đề này, bởi vì đây là một vai trò của Phật giáo, quyết không để mê tín tràn lan, vừa hại cho đạo mà cũng vừa ai cho đời. Một tu sĩ Phật giáo đã cạo bỏ râu tóc, mình mặc áo cà sa, là quyết định cuộc đời vì mục đích giải thoát và cứu độ chúng sinh, chứ không có hình thức mang hia đội mão, áo cà sa hoại sắc thô bố chứ không phải gấm tía hài son. Đừng ham danh lợi mà phải mượn nón này mũ nọ, hài son y tía, mà thu hút hoặc tô thêm uy nghi. Đức Phật dạy uy nghi có được là nhờ vào sự giữ gìn Giới luật, đức hạnh là nhờ vào sự trang nghiêm của hành vi đạo đức, chứ không có cái gì tô vẽ nên được.
Thiết nghĩ, Phật giáo vốn chẳng có những việc như thế, nhưng vì Đạo Phật là đạo từ bi, mà phương tiện để độ chúng sanh từ mê sang ngộ, mà Phật giáo từ buổi đầu đã chấp nhận những hình thức tín ngưỡng dân gian địa phương mà truyền bá chánh Pháp. Nhờ những hoạt động uyển chuyển như vậy mà Phật giáo dần dần dạy cho người dân biết được nhân quả, làm lành tránh dữ, ngõ hầu đem lại cuộc sống an lạc hạnh phúc cho người dân. Do đó, dù đạo Phật không chủ trương cúng bái, cầu xin, nhưng khi tới địa phương nào thì cũng tùy thuận chúng sinh mà làm lễ bái cho dân chúng, rồi sẽ nhân đó mà giảng giáo lý nhà Phật, rất minh bạch rõ ràng, rồi còn chỉ cho họ con đường đi đến giác ngộ giải thoát, và chứng đắt đồng với quả vị của Đức Phật.
Nhận thấy đây là một vấn đề cần phải được xem xét, đề nghị Giáo hội cần phải rõ ràng trong vấn đề tu sĩ và thầy cúng, chớ có lẫn lộn mà hại cho Phật giáo. Việc nghi lễ cũng là việc cần làm tuy nhiêm đừng để bị lạm dụng không những tai hại cho Phật giáo mà xã hội cũng bị ảnh hưởng lây. Cần phải đặt vai trò giáo dục Phật giáo và đào tạo Tăng tài, nâng cao vai trò ý thức việc đi cúng hoặc cấp phát chứng chỉ mới được đi cúng. Những cơ sở xưa là cơ sở của Giáo hội mà nay do các thầy cúng trú trì thì phải cần cử tu sĩ đến thay đổi hoặc làm các cơ sở phục vụ cho mục đích số đông. Việc làm cần thiết hơn nữa là cải cách nghi lễ, những yếu tố có thiên hướng đi xa với ý nghĩa thực tế thì bỏ, đưa các hình thức cầu nguyện đúng đắn.
Thích Minh Hạnh
(Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quán – Huế)
Tiffany Vang
Học vấn uyên thâm, bài viết sâu sắc, lý lẽ rất thuyết phục khiến cho mình, dù vừa đi học, vừa đi làm, vừa nuôi hai con nhỏ, bận rộn vô cùng mà thích thú đọc hết không sót một chữ nào. Trên Internet lưu truyền nhiều đoạn video clip thầy tu uống rượu say, ôm ấp, hôn hít ca sĩ đến hát cho chùa. Kính mong Giáo hội xem xét ý kiến của thầy Thích Minh Hạnh để sớm có biện pháp khấc phục, chấn hưng Phật giáo.
Người Ăn Mày Thế Kỷ
Bài viết quá trung thực, hiện tại đã quả tải thợ cúng, thợ tụng vì nghề nầy làm nên làm ra nên chính người tu bày ra lắm trò..., Đội mão và mặc quần áo nhìn và thấy mỉa mai, Tăng chẳng ra Tăng đúng là phi Tăng - phi tục, lắm cảnh đau lòng như bài viết thật hay của Nguyễn Mạnh Hùng.
Nguyễn Đức Thanh
Hay quá. Con kính ngưỡng Uy nghi có được là do giữ gìn giới luật, đức hạnh là nhờ vào sự trang nghiêm của hành vi đạo đức
Thích Trả lời 2/23/2016 2:00:20 PM