;
Trong bài kinh Mettāsutta [1], Ðức Phật dạy có 11 quả báu của tâm từ như sau:
– Này chư Tỳ khưu, khi hành giả niệm rải tâm từ dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới xong, đã thực hành qua thời gian lâu dài trở nên thuần thục rồi, làm cho định tâm an trú vững chắc theo tuần tự, đã tích luỹ nhiều, đã tinh tấn không ngừng, nên hành giả được 11 quả báu như sau:
1- Ngủ được an lạc.
2- Thức dậy được an lạc.
3- Không thấy các ác mộng.
4- Ðược mọi người thương yêu, quý mến.
5- Ðược các hàng phi nhân thương yêu, quý mến.
6- Ðược chư thiên hộ trì.
7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… không thể làm hại được.
8- Tâm dễ dàng an tịnh.
9- Gương mặt sáng sủa.
10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt).
11- Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên.
– Này chư Tỳ khưu, khi hành giả niệm rải tâm từ dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới xong, đã thực hành qua thời gian lâu dài trở nên thuần thục rồi, làm cho định tâm an trú vững chắc theo tuần tự, đã tích luỹ nhiều, đã tinh tấn không ngừng, nên hành giả được 11 quả báu như vậy.
Giải thích:
1- Ngủ được an lạc như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, tâm của họ thường sân hận, nóng nảy bực tức, cho nên khi nằm ngủ trăn trở suốt đêm, dù nằm yên, mà vẫn không ngủ được, đến khi mệt nhoài ngủ thiếp, cũng không được an lạc.
– Ðối với hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, thân tâm thanh tịnh, khi ngủ dễ dàng, ngủ là thời gian nghỉ ngơi, cho nên ngủ được an lạc như hành giả nhập định.
2- Thức dậy được an lạc như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, khi ngủ thiếp vì bị mệt nhoài, cho nên khi thức dậy, không muốn dậy, mà phải thức dậy, vì vậy không được an lạc.
– Ðối với hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, khi ngủ dễ dàng, ngủ ngon giấc, nghỉ ngơi, cho nên khi thức dậy được an lạc.
3- Không thấy các ác mộng như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, nằm ngủ không ngon giấc; lúc không phải ngủ, cũng không phải thức, cho nên thường xảy ra hiện tượng thấy những ác mộng kinh hoàng, ví như: mộng thấy thú dữ đuổi theo mình, người đang vây bắt mình, mình rơi xuống hố sâu, v.v… khi thức dậy còn thấy hồi hộp, lo sợ.
– Ðối với hành giả niệm rải tâm từ, nằm ngủ ngon giấc; lúc không phải ngon giấc cũng không phải thức, thường xảy ra hiện tượng mộng thấy như mình bay du ngoạn nơi này nơi khác cảm thấy rất thích thú, hoặc mộng thấy mình đi chiêm bái ngôi bảo tháp, nghe pháp v.v… hoặc mộng thấy trước những điều lành, điều tốt sẽ xảy ra trong tương lai, v.v… khi tỉnh giấc còn ghi nhớ lại rõ ràng, cảm thấy hài lòng, an lạc.
4- Ðược mọi người thương yêu như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có nhân loại, không cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến tất cả nhân loại, nghĩa là người nào không có tình thương yêu mọi người, thì người ấy không nhận được tình thương yêu đáp lại, đó cũng là lẽ công bằng tự nhiên.
– Ðối với hành giả niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có nhân loại, cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh, đặc biệt nhất là tất cả nhân loại. Khi hành giả tiếp xúc với mọi người, tâm từ được thể hiện bằng thân: thân hành động hợp với tâm từ; tâm từ được thể hiện qua khẩu: lời nói hợp với tâm từ; tâm từ hợp với ý thức tâm cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là tất cả loài người. Do đó, hành giả được mọi người thương yêu, quý mến.
5- Ðược các hàng phi nhân thương yêu, quý mến như thế nào?Phi nhân có nghĩa là không phải người, nói đến tất cả các loài chúng sinh khác như hạng phạm thiên, hạng chư thiên, loài ngạ quỷ, loài atula, loài súc sanh… đều gọi là hàng phi nhân.
– Ðối với người không niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có các hàng phi nhân, cho nên các hàng phi nhân không những không thương yêu, mà còn có thể gây ra mọi sự tai hại, mọi sự trở ngại đối với người ấy.
– Ðối với hành giả niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có hàng phi nhân, làm cho các hàng phi nhân cảm thấy mát mẻ dễ chịu, phát sanh tâm hài lòng, hoan hỉ, không những muốn được gần gũi thân cận với hành giả, mà còn thương yêu, kính mến hộ trì hành giả sống được an lạc.
– Không chỉ tất cả các hàng chư thiên thương yêu kính mến hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, mà còn các loài súc sanh cũng thương yêu, kính mến người có tâm từ. Như trường hợp Ðức Bồ Tát Suvannasāma sống với song thân là hai đạo sĩ mù ở trong rừng, Ngài hành pháp hạnh tâm từ ba la mật, nên các loài súc sanh thương yêu, kính mến Ngài. Ngài đi đâu chúng cũng đi theo quấn quýt bên Ngài không rời nhau.
Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có các hàng phi nhân. Hành giả sẽ được các hàng phi nhân thương yêu, kính mến như vậy.
6- Ðược chư thiên hộ trì như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, chư thiên không gần gũi thân cận, nên không hộ trì người ấy.
7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí,… không thể làm hại được như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… có thể làm hại người ấy, đó là việc thông thường.
– Ðối với hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… không thể làm hại hành giả, bởi vì năng lực của tâm từ rất phi thường, có thể hoá giải những thứ ấy trở thành vô hiệu, cho nên những thứ ấy không thể làm hại được hành giả.
Đức Phật dạy cho nàng Ut-ta-ra!
“Akkodhena jine kodhaṃ,
Asādhuṃ sādhunā jine.
Jine kadariyaṃ dānena,
Sacce nāli kavàdinaṃ”.
(Này, con Ut-ta-rā!
Thắng được người sân hận,
Bằng tâm không sân hận.
Thắng được người độc ác,
Bằng thiện pháp cao thượng.
Thắng được người keo kiệt,
Bằng phước thiện bố thí.
Thắng được người nói dối,
Bằng lời nói chân thật).
Do quả báu của tâm từ, lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí không những không thể hại người có tâm từ, mà còn có thể cải hoá người ác thành người thiện, cải tà quy chánh.
8- Tâm dễ dàng an tịnh như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, có tánh hay sân hận, khi gặp phải đối tượng không hài lòng, dễ phát sanh tâm bất bình nơi đối tượng ấy, không có tánh nhẫn nại, khi trời lạnh quá, chịu không được hoặc trời nóng quá cũng chịu không được, v.v…
Do đó, khi tiến hành thiền định với đề mục thiền định nào, dầu có tinh tấn nhiều, tâm cũng không dễ dàng an tịnh, bởi vì tâm hay sân hận là một trong 5 pháp chướng ngại của thiền định; cho nên, hành giả cần phải kiên trì tiến hành thiền định với đề mục thiền định ấy phải trải qua thời gian lâu dài, tâm mới có thể an tịnh, để chứng đắc các bậc thiền sắc giới.
– Ðối với hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, nên tâm thường mát mẻ, có đức tính nhẫn nại, dù gặp phải đối tượng tốt xấu thế nào, vẫn giữ thiện tâm trong sạch. Cho nên, hành giả tiến hành thiền định với đề mục nào, tâm cũng dễ dàng an tịnh, có thể dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới.
9- Gương mặt sáng sủa như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, có tánh hay sân hận, tâm sân hận thuộc tâm ác, làm nhân duyên phát sanh sắc pháp thường hiện rõ trên khuôn mặt cau có, nhăn nhó, dữ tợn trông thấy đáng sợ. Một người xinh đẹp, bình thường tâm sân không phát sanh, trông thấy dễ thương, dễ mến, nhưng khi tâm sân phát sanh, trông thấy đáng sợ; còn một người xấu xí, bình thường tâm sân hận không phát sanh, người ta đã không muốn nhìn, một khi tâm sân phát sanh nữa thì đáng ghê sợ biết dường nào!
– Ðối với hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, tâm từ thuộc về thiện tâm làm nhân duyên phát sanh sắc pháp, thường hiện rõ trên gương mặt sáng sủa, trông thấy hiền lành đáng yêu, đáng kính. Một người xinh đẹp lại có tâm từ, chắc chắn được phần đông kính yêu, ngưỡng mộ; hoặc một người dầu xấu xí mà có tâm từ cũng có thể làm cho người khác thương yêu, quý mến.
10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt) như thế nào?
– Ðối với người không niệm rải tâm từ, có tánh hay sân hận, không có đức tính nhẫn nại chịu đựng, cho nên lúc lâm chung, do bệnh làm cho khổ thân, có thể làm cho tâm sân bực tức, khó chịu. Mỗi khi tâm sân phát sanh luôn luôn có tâm sở si đồng sanh với tâm sân ấy làm cho tâm mê muội lúc lâm chung.
– Ðối với hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, có đức tính nhẫn nại chịu đựng được mọi đối tượng xấu, thiện tâm không thay đổi, trong thiện tâm luôn luôn có tâm sở niệm đồng sanh với thiện tâm ấy, thiện tâm có trí nhớ, nếu có tâm sở trí tuệ đồng sanh nữa, thì lúc lâm chung, tâm không mê muội, nghĩa là có thiện tâm sáng suốt, minh mẫn.
11- Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên như thế nào?
– Lúc lâm chung tâm mê muội, tâm bị ô nhiễm, do ác nghiệp ấy cho quả, thường bị sa vào một trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ do ác nghiệp đã tạo.
– Lúc lâm chung tâm không mê muội, thiện tâm sáng suốt, minh mẫn do thiệntâm ấy cho quả, thường được tái sanh cõi thiện giới là cõi người hoặc cõi trời dục giới hoặc cõi trời sắc giới.
Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, nếu chưa có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc giới nào và cũng chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, do dục giới thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh trong cõi thiện giới là cõi người hoặc một trong 6 cõi trời dục giới, hưởng sự an lạc nơi cõi ấy cho đến hết tuổi thọ.
– Nếu có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền cho đến đệ tứ thiền sắc giới (ngoại trừ đệ ngũ thiền sắc giới), nhưng chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, do sắc giới thiện nghiệp ấy, đó là bậc thiền sắc giới sở đắc của mình, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên, tương xứng với bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài tại cõi trời sắc giới ấy.
Mười một quả báu của đề mục niệm rải tâm từ đã được giải thích tóm tắt xong. Khi xem xét qua 11 quả báu của đề mục niệm rải tâm từ, đó là một bài học quý giá khích lệ đối với những người chưa tiến hành đề mục niệm rải tâm từ. Và đối với người đã từng tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, thì càng tinh tấn tiến hành đề mục niệm rải tâm từ hơn nữa, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho mình và cho mọi người, mọi chúng sinh.
Trích "Tâm từ", chương 5 Quả báu của tâm từ, tỳ khưu Hộ Pháp