;
Hình minh họa
“Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.”
Từ lâu, nhiều người nhầm tưởng màu nâu sồng của nhà tu Phật giáo xuất hiện cùng công cuộc định chế lại y phục áo dài của Việt Nam thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) Đàng Trong. Hoặc có người suy luận: “Màu nâu là màu áo truyền thống của giới xuất gia Việt Nam.
Màu nâu cũng là màu y phục nông dân. Sử dụng màu nâu, người xuất gia… muốn đồng nhất mình với người nông dân lam lũ để thực hiện hạnh khiêm cung… Màu nâu cũng tượng trưng cho sức chịu đựng giỏi, cho tinh thần đại hùng đại lực.”
Lịch sử quá khứ trong Phật giáo không cho phép chúng ta bình thản khép lại tất cả; mọi thứ hiện tại xung quanh tạm được ánh sáng cây đèn dầu soi rọi, còn những gì dưới chân đèn mãi mãi chìm sâu trong bóng tối của dĩ vãng. Chúng ta hãy cùng nhau lội ngược dòng lịch sử, tìm hiểu thời Phật tại thế Ngài khoác ca-sa màu gì?
Màu ca-sa (袈裟, kaṣāya), theo từ nguyên là màu dơ, màu xấu, hay màu y nhuộm. Thuở xưa, khi thái tử Siddhārtha từ bỏ cung vàng điện ngọc, vượt hoàng thành vào rừng sâu tìm chân lý, thái tử đổi y vương gia lấy chiếc y của người thợ săn sờn cũ, đó là ý nghĩa ban đầu của ca-sa.
Đến khi thành lập Tăng đoàn, đức Phật quy định cho chúng Tăng, phải dùng một trong ba màu: xanh ten đồng (bronze - 銅青, nīla), đen-bùn (mud black 泥墨, kaddama) và mộc lan (mulan 木蘭, kāḍiśāma) để nhuộm chiếc y trước khi thọ trì.
Nguồn gốc của ba màu này là từ các nguyên liệu làm thuốc nhuộm như rễ, vỏ và lá của cây, bùn, tro, nước phân bò (gomaya), nồi đồng để đựng, đồ sắt mài v.v... tạo thành. Trong quá trình biến chế, phản ứng hóa học tạo ra màu mộc lan là màu đỏ thẫm, đỏ-đen, hay đỏ-cam.
Việc nhuộm một chiếc y có nhiều ý nghĩa và mục đích mà đức Thế Tôn quy chế: như làm hư màu đẹp ban đầu của tấm vải (hoại sắc 壞色, Pāli: dubbaṇṇa), nói lên khước từ chất liệu vải vóc và sắc màu của thế gian, đồng nghĩa ngăn chặn lòng tham trước của chúng Tăng.
Ý nghĩa thứ hai làm khác biệt với y phục ngoại đạo (paribbājakā), thứ ba là tránh bị giặc cướp thấy y phục tốt cướp bóc, cuối cùng là loại y phấn tảo (pāṃsukūla, 糞掃衣) mà tỳ-kheo lượm ngoài bãi tha ma, mộ địa... thường dơ và hôi, cần giặt nhuộm cho sạch trước khi mặc.
Sau đức Phật nhập diệt 100 năm, Phật giáo phân chia thành nhiều bộ phái, mỗi bộ tự quy định màu sắc ca-sa theo tông phái của mình. Phái Hữu bộ (Sarvāstivādin) mặc ca-sa đỏ thẫm, Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) mặc ca-sa đen, Ẩm quang bộ (Kāśyapīya) mặc ca-sa mộc lan, Hóa địa bộ (Mahīśāsaka) mặc ca-sa xanh, Đại chúng bộ (Mahāsaṅghikas) mặc ca-sa vàng.
Hiện nay Phật giáo Nam truyền tại Thái-lan cũng mặc y vàng như Đại chúng bộ. Nhiều nhà sư Nam truyền lý giải, chính do nguyên liệu nhuộm vải: củ nghệ (curcuma, turmeric), nghệ tây (safran, saffron)... thời Phật quy chế mà ra màu như thế; hoặc các nhà Phật học cho rằng màu y vàng đó ảnh hưởng tông phái đắp y màu lá đồng (Đồng diệp bộ 銅鍱部, Tambapaṇṇīya) truyền xuống Tích-lan đầu tiên thời vua A-dục.
Nhưng theo chúng tôi nghi vấn, Phật giáo Thái-lan và Đại chúng bộ đắp ca-sa vàng là y cứ câu chuyện huyền thoại đức Phật có đắp y vàng ròng do Cù-đàm-di cúng dường, và truyền thuyết lúc Phật sắp niết-bàn, có một người tên Pukkusa dâng cúng một cặp y (vải) lụa màu vàng ròng.
Quay lại quá khứ xa xưa, trên lãnh thổ Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ 2-3 trước TL., xuất hiện một nhà sư tên Phật Quang đến núi Quỳnh Viên truyền tam quy cho Chữ Đồng Tử và Tiên Dung.
Sau nhà sư Phật Quang, đến thời Hán Linh Đế (169-187 sau Tl.), có hai nhà sư là Khâu-đà-la và Ma-ha Kỳ-vực đến Giao Châu. Vậy những nhà sư này thuộc bộ phái nào, học mặc ca-sa màu gì? May thay, cùng thời với Khâu-đà-la và Kỳ-vực, có Phật tử Mâu Tử, ông viết tác phẩm Lý hoặc luận vào năm 198 (thế kỷ thứ 2 Tl.), đề cập đến tổ chức cộng đồng Tăng lữ thời ấy mặc y đỏ thẫm.
Theo những cuộc thăm dò và khai quật khảo cổ, người ta chứng minh rằng thương mại hàng hải của Ấn-độ tiếp xúc với vùng Đông nam á bắt đầu từ thế kỷ thứ 5 đến thứ 4 trước TL. Đặc biệt giao thương hàng hải diễn ra đa chiều, với sự đóng góp của các nhà sư, thương nhân, nhà điêu khắc và sứ thần tham gia ra khơi.
Những nhà sư mà đi theo thương thuyền thời ấy chúng tôi suy đoán là phái Căn bản thuyết nhất thiết hữu (Mūlasarvāstivādin), giáo đoàn của họ hình thành từ rất sớm, ít nhất vào thời Kết tập Vaiśālī (khoảng năm 300 trước Tl.). Khu vực hoằng hóa tại Mathurā và thành Śūrpāraka (Thâu-ba-la-ca 輸波羅迦). Thành Śūrpāraka có bến cảng Śūrpāraka (Suppāraka), nơi giao thương với cảng Bhārukaccha và Suvannabhūmi - chỉ cho Đông nam á.
Bằng chứng, trong Luật tạng của bộ phái này kể rằng, mỗi lần thương thuyền ra khơi hay mời Tăng sĩ phái Căn bản Hữu bộ đi theo để cầu nguyện bình an cho thương đoàn. Do đó, khả năng nhà sư Phật Quang, Khâu-đà-la, Kỳ-vực là phái Căn bản Hữu bộ, và màu ca-sa họ mặc là màu đỏ thẫm. Và có thể phái này tồn tại đến thời Khương Tăng Hội (康僧會; ? - 280), Đạo Thiền (457-527)…
Từ đây cho phép chúng ta đưa ra một câu hỏi, chẳng lẽ thời kỳ đầu Phật giáo du nhập Việt Nam, những người xuất gia tại Giao Châu không biết gì màu sắc y phục do Phật quy chế, hay màu ca-sa của bộ phái, lại nhìn áo nâu sồng của nhà nông mà phỏng theo?! Cho nên một câu trả lời có thể, màu nâu sồng truyền thống là bắt nguồn từ màu đỏ thẫm, hay đỏ-đen của Căn bản Hữu bộ mà ra.
Còn màu y vàng và y đỏ của Tăng sĩ Việt Nam ngày nay dùng vào khóa lễ tụng niệm có từ đâu? Chúng ta hãy tìm hiểu sang nước láng giềng. Ở Trung Quốc, sơ khởi người xuất gia cũng mặc y đỏ sậm, đỏ ít đen nhiều. Đây là màu của phái Hữu bộ.
Sắc phục này thịnh hành một thời gian dài đến đời Đường, sư Pháp Lãng... tất cả 9 người, nhận sắc lệnh dịch kinh Đại vân, dịch xong được Võ Hậu ban cho ca-sa sắc đỏ tía (tử y 紫衣), nguyên do màu đỏ tía là sắc phục quan chức, học giả được triều đình trọng vọng nên lấy màu này quy chế ban tặng cho Tăng, quy chế đó kéo dài đến đời Tống.
Đời Nguyên Thế Tổ lại ban ca-sa hồng (紅袈裟) cho Tăng giảng kinh. Đến triều Minh, phân ra 3 loại: Thiền tăng là mặc y vàng, Tăng giảng kinh mặc y hồng, Tăng Du-già (trì Mật tông và ứng phó đạo tràng cúng bái) mặc y xanh nhạt. Y vàng được cung kính nhất; Minh Thái Tổ từng ban tặng cho pháp sư Toại Sơ (遂初法師) tấm y tăng-già-lê sợi vàng ròng (賜金縷僧伽黎).
Chắc chắn sắc phục ca-sa vàng và đỏ của Tăng sĩ Việt Nam ảnh hưởng từ Trung Hoa, vì áo lễ của Tăng, ni Việt Nam mặc ngày nay có hai ống tay rộng là mô phỏng kiểu Trung Hoa, gọi là Hải thanh (海青).
Khi Tăng nhân Ấn-độ đến Trung Hoa, người Hán cho rằng y phục họ khoác không hợp với thuần phong mỹ tục trên đất nước mình, do đó hai ống tay rộng được may thêm vào bắt đầu từ thời Hán-Ngụy (hoặc có thuyết nói từ thời Hán-Đường), dựa theo y phục cung triều.
Hai ống tay biểu tượng cho đôi cánh của loài chim ưng ở biển Đông (海東青, Hải đông thanh, The gyrfalcon). Và chế tác một tấm vải gọi là Thượng y (Uttarāsaṅga) đắp bên ngoài chiếc áo choàng dài tay. Ngoài ra ở Trung Hoa gặp phải thời tiết giá lạnh, cộng với chủ trương của Bách Trượng (thiền sư đời Đường) thiền nông nghiệp tức tu sĩ tự canh tác, do vậy mà phát sinh thêm y phục chống lạnh và y phục lao động…, nên Tăng phục có thêm màu xám tro, màu nâu sậm và màu mộc lan. Màu mộc lan phổ biến nhất.
Dòng suối đầu nguồn chảy dần ra biển cả, suốt chặng đường dài nguồn nước ấy không thể trong xanh như ban đầu. Màu sắc ca-sa ý nghĩa ban đầu là màu xấu, màu khước từ vật chất thế gian; giặt nhuộm nó như sự ẩn dụ rửa sạch các chướng ngại phiền não để tiến bộ dần trên con đường tâm linh.
Nhưng giờ đây, màu ca-sa lộng lẫy bị biến thể cả màu sắc lẫn chất liệu vải vóc… Chỉ còn đâu đó chút màu nâu sồng giữ được dáng vẻ truyền thống mà Phật quy chế một thuở nào.
Ngày 11 tháng 7, Nhâm dần
Tâm Nhãn
Tài liệu tham chiếu:
1. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam 1, Huế - 1999.
2. Kinh, luật, luận – Tạng Đại chánh (大正新脩大藏經).
3. Luật Pāli.
5. 大比丘三千威儀.
6. 舍利弗問經.
7. 民國印順著, 制度教典與教學.
8. 中阿含經 47, T01n26, p.722a02.
9. Kinh Đại bát-niết-bàn (16. Mahāparinibbāna Sutta), Tụng phẩm iv, trong Trường bộ (Dīgha nikāya).
10. André Bareau, Les Sectes Bouddhiques du Petit Véhicule, XXVI - 1955 - Anh dịch: The Buddhist Sects of the Lesser Vehicle, bởi Gelongma Migme Chodron (2005), p. 194. Demiéville: Origine des sectes bouddhiques.
11. R. C. Majumdar, Ancient Indian Colonies in the Far East, Vol. II, Suvarnadvipa, Calcutta, Modern Publishing Syndicate, 1937, Chapter IV, Suvarnadvipa.
12. 根本說一切有部毘奈耶出家事 - T23n1444, p. 1020b11-1041a21. Phạn: MSV. Mūlasarvātivādavinayavastu, vol. II, edited by Dr. S. Bagchi, Darbhanga, 1970. Bản Tây Tạng: Tibetan Buddhist Resource Center, TBRC Volume number: 886, TBRC Work number (W): 22084 – current volume 1. |rab tu byung ba’i gzhi- |(a) gZhi.21-2614|- (b) sDe-dge |’dul ba ka 2a1-131a4|.
13.《釋氏要覽》卷1, T54, no. 2127, p. 270b8-9.
14. https://baike.baidu.com/item/僧服.
15. 荻原雲来 (Wogihara), 漢訳対照 - 梵和大辞典, 1997, p. 331; Monier-Williams, Sanskrit dictionary (http://Sanskritdictionary.com).