;
Sở vị trưởng lão
Bất tất niên kỷ
Hình thục bạch phát
Xuẩn ngu nhi dĩ.
Nghĩa là:
Không tịnh hạnh tu trì
Tôn xưng là trưởng lão
Danh suông nghĩa lý gì?
(Kinh Pháp Cú 260)
Những người chân tu thực học, giữ gìn tâm tính nhân từ, sáng suốt, cư xử rất mực từ bi & trí tuệ, khắp nơi cảm thấy thanh lương khi thân cận, thiền môn phát triển, nhiều người tìm tới nương tựa. Thế mới xứng danh là bậc trưởng lão trong chốn thiền môn.
Vị hoài chánh pháp
Thuận diệu từ nhân
Minh đạt thanh khiết
Thị vi trưởng lão
Nghĩa là:
Những ai thấu chánh pháp
Tự điều phục thân tâm
Thanh tịnh và sáng suốt
Xứng đáng là trưởng lão.
(Kinh Pháp Cú 261)
Trong kho tàng kinh điển của Phật giáo, danh & thực là hai phạm trù thường được đề cập, phân tích cặn kẻ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
Danh là một trong năm món dục được chúng sanh ưa thích, tham đắm cần phải loại trừ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Thực là nội dung của giác ngộ giải thoát, mỗi người phải phấn đấu để chứng đạt.Cả hai phương diện này nếu tương ưng nhau thì thật là tốt. Nếu có thực mà không danh thì càng hay, nhưng có danh mà không thực thì quả là tai họa.
Thí dụ: các vị có danh Hòa Thượng, Thượng Tọa, lại nắm giữ các trọng trách trong nhà chùa, nhưng thực chất do bè phái, sống lâu lên lão làng, không thực tâm hoằng pháp lợi sanh, không thực tâm tu dưỡng, cư xử tàn độc với đồng môn, tự tôn tự đại, tai hại vô cùng!
Thời Đức Phật, các bậc đạo cao, đức trọng thường được tôn xưng là Thượng Tọa, là Trưởng Lão. Vì thế, hàng thượng tọa rất được Tăng chúng và tín đồ cung kính, nể trọng, cúng dường hậu hỷ, đồng thời các Ngài là bậc lãnh đạo, mô phạm trong đại chúng, nên luôn được Phật ca ngợi, tán thán.
Cũng vì sự trọng vọng này mà không ít người chưa điều phục được tâm tham danh, cũng mong ước bước lên hàng thượng tọa, cầu đắc lợi lộc, thích được cung kính, say mê danh vọng.
Đức Thế Tôn biết rõ người đời sau phước mỏng nghiệp dầy, đam mê danh vọng, cho nên Ngài dạy: Thượng Tọa là bậc đã thấu được Chánh Pháp, cư xử tốt với mọi người (từ bi & trí tuệ viên dung), chứ không vì tuổi tác hay nguồn gốc xuất thân. Một chú tiểu nếu xứng đáng cũng được gọi là Thượng Tọa.
Thời nay, các danh xưng như chú Tiểu, Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng cũng chỉ là để có tôn ti trật tự trong thiền môn. Các danh xưng vốn chẳng có giá trị hay liên hệ nào đối với nội tâm an tịnh, tuệ giác và sự tự tại giải thoát cả. Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Nhưng dù sao thì mỗi người cũng cần phải có một hư danh để phân biệt với các hư danh khác.
Như thế, nếu thực nội tâm tu dưỡng chưa xứng với danh xưng cao, thì điều phải làm chính là: tự phản tỉnh, tự vấn lương tâm, tự tàm quí, tự hổ thẹn, hơn là vỗ ngực xưng danh và tự mãn vui mừng. Ai cũng biết danh xưng là giả huyễn, tự phong hoặc người khác phong cho cũng vậy thôi, nhưng lâu ngày thấy đó là thật, nguy hiểm vô cùng.
Về hình thức, chú Tiểu và Thượng Tọa tuy có khác nhau, nhưng nội dung bất khả tư nghì. Vì thế, khi biết rõ về cái giả danh không thật, người có tâm cầu pháp, muốn giác ngộ chân lý vô thượng, phải luôn phấn đấu cho xứng đáng, xứng danh là người có tuệ giác biết buông xả, không dính mắc, vượt qua hết thảy các pháp - dù thực hay giả.
Tóm lại, các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, không nên tranh cãi.