;
I. Câu đối chữ Việt
01. Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội;
Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân.
(Phụng điếu Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết Chùa Tường Vân-Huế năm 1972)
02. Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ;
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.
(Tặng Giảng đường Từ Đàm-Huế)
03. Tánh lặng Đất Trời chung một cỏi;
Tâm không trăng gió trải muôn phương.
04. Biển ái lấp bằng, Tịnh độ đi về đâu mấy chốc;
Sông mê tát cạn, Niết bàn an trú vốn không xa.
(Tặng tháp Thượng tọa Thiện Lộc Chùa Thuyền Tôn-Huế)
05. Ngộ thấu nguôn chơn, tâm danh lợi trôi theo giòng nước;
Rõ cùng lý đạo, niệm thị phi bay lẫn chòm mây.
06. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo;
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi.
07. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát nhã chiếu tan niềm tục;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương.
08. Rũ sạch lòng trần, giọt nước cam lồ, rưới khắp phiền não chín cõi;
Mở tròn tuệ giác, soi đèn Bát nhã, hiển bày tướng hảo ba thân.
09. Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội;
Chim dù xa tổ nhớ ơn cây.
10. Tấc cỏ ngậm ngùi, hương khói tỏ lòng con cháu thảo;
Ba xuân thương nhớ, lớn khôn nhờ đức tổ tông hiền.
11. Mắt trí rạng ngời, đèn vô tận chiếu tan niềm tục;
Tay từ tế độ, nước dương chi gội sạch lòng trần.
12. Cỏi Ta bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời giác ngộ;
Cửa Tam quan tình thương rộng mở, chuông khua đồng vọng tiếng từ bi.
13. Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy,thấy không tùy mắt ngắm;
Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư, hư thật hỏi lòng xem.
(Tặng Chùa Thanh Phước -Huế)
14. Tiếng chuông Linh mụ vọng về đâu, sáu nẻo luân hồi chúng sanh mong tế độ;
Cội cả tòng lâm đà ngã xuống, hai hàng mê ngộ đệ tử xót bơ vơ.
(Điếu Hòa Thượng Thích Đôn Hậu)
15. Sạch phiền não, hết tham sân, cửa Phật đây rồi thôi tìm kiếm;
Phá si mê, trừ nghiệp chướng, đường trần đó mặc hết rong tìm.
16, Cửa Không trống dậy mấy hồi, đọc kinh chú xua tan mộng ảo;
Cỏi Phật chuông đưa vài chập, niệm nam mô xóa sạch não phiền.
17. Lặng nhìn mây trắng núi xanh, hương giải thoát xông lừng cây cỏ;
Vẳng tiếng thông reo chim hót, gió từ bi thổi mát đất trời.
18. Mây núi chập chùng, trăng Bát nhã lồng soi vũ trụ;
Cỏ hoa tươi tốt, gió Từ bi thổi mát sinh linh.
19. Đây chùa đây Phật, đây mõ sớm chuông chiều, nhắn nhủ khách trần về nẻo giác;
Này trăng này gió, này kinh vàng kệ ngọc, khuyên răn người tục bỏ đường mê.
20. Phật đạo có gì đâu, thả chiếc thuyền Từ chờ kẻ giác;
Pháp môn không kể xiết, khêu đèn Bát nhã đón người mê.
21. Vô minh tham ái buộc ràng, đối cảnh sinh tình thêm lụy tục;
Bát nhã từ bi giải thoát, xem kinh mở trí rạng lòng chơn.
22. Đạo tổ sáng hoài cây cỏ đượm nhuần mưa pháp;
Chùa xưa mới mãi cháu con tiếp nối đèn thiền.
23. Dứt sạch mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác,
Trù không nghiệp chướng, giương cao đèn tuệ vượt sông mê.
24. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mê muội;
Cửa Chùa thanh tịnh, chuông chiều khua rã mộng ba sinh.
25. Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh.
26. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đền Bát nhã soi cùng vũ trụ;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi dội khắp non sông.
27. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, hương giải thoát xông tan niềm tục;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc; tiếng Từ bi gõ thức tình thương.
28. Cỏi Ta bà mê muội trầm luân; trống chuyển âm vang lời Giác ngộ;
Cửa Tam bảo đạo tình mở rộng, chuông khua đồng vọng tiếng Từ bi.
28. Mười hiệu Phật, vài câu kinh, đánh thức ngàn năm mê muội;
Một hồi chuông mấy nhịp mõ, gõ tan bao kiếp trầm luân.
29. Người nương pháp, pháp nương người, động tịnh theo duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác rõ lời chơn.
30. Cảm tác
Năm tháng phù sinh diệt kiếp người,
Cuộc đời như thể án mây trôi;
Buông tay mộng huyển về theo Phật,
Chín phẩm đài sen tỏa sáng ngời.
II. Câu đối chữ Hán:
01. Nhập môn nghi xả dung thường tánh;
Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm.
Dịch
Vào cổng (Chùa) nên bỏ tánh tầm thường
Đến chùa, hãy sinh tâm hoan hỷ
02. Kim địa Tòng lâm, cô nguyệt, quang hàn, không tức sắc;
Sơn đầu bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim.
Dịch
Đất báu Tòng lâm, trăng đơn, ánh lạnh, không tức sắc;
Non cao chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim.
(Tăng Tòng lâm Lam sơn ở đồi Lam Sơn, làng Lựu Bảo, Huế-1986)
03. Hồ bạn khởi thiền quan, giáo điển chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế;
Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ thiền căn.
Dịch
Bên hồ dựng chùa thiền, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
Đầu núi khai hội pháp, nghe thuyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
( Tặng Chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn lập tại Tuy hòa kiến thiết lại năm 1984)
04. Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thựcc địa;
Báo quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ bất lạc kỳ đồ.
Dịch
Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò trì Giới Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bảy quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật;
Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia.
(Câu đối bàn thờ ổ Chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969)
05. Khiêm nhẫn hữư dư, phát ý viên thành Tam tụ giới;
Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hằng tâm.
Dịch
Khiêm nhẫn có dư, một niệm tròn thành Tam tụ giới;
Trí bi vô ngại, trọn đời chẳng thối Tứ hoằng tâm.
(Câu đối ở tháp Hòa Thượng Thích Thanh Trí Chùa Báo Quốc-Huế)
06. Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bô;
Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ năng tâm nội thừa đương.
Dịch
Trỏ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, ai là người đầu sào tiến bước ?
Khêu cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chí, mới chính kẻ tự nội thừa đương.
( Câu đối ở tháp Chùa Báo Quốc-Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn Nha Trang)
07. Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thác mê vân,bất quyện hối nhân bồi Phật chủng;
Cứu nhơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong.
Dịch
Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề, dạy người vun Phật chủng;
Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dưng gậy chấn tông phong.
(Tặng tháp Hòa Thượng Thích Trí Thủ Chùa Báo Quốc-Huế)
08. Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật;
Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa.
Dịch
Gió lành trên đỉnh Ngự, phe phất trên mặt hỏi ai đâu sắplàm Phật ?
Cây khô trước Ngự Bình, chờ người tri ngộ để họ nở hoa.
(Tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình-Huế)
09. Tức tục nhi nhơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới;
Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn.
Dịch
Tức tục mà chơn: nơi nơi đều thành Hoa tạng giới;
Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn.
(Tặng tháp Hòa Thượng Thích Mật Nguyện, Chùa Trúc Lâm-Huế)
10. Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ;
Hương biến trang nghiêm đọ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng.
Dịch
Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già dựng xây pháp tràng khắp chốn;
Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
(Tặng Hòa Thượng Thích Trí Thủ năm 1970)
11. Bội giác hiệp trần, mộng ý na tri thân thị huyễn;
Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm.
Dịch
Trái giác hiệp trần, trong mộng chẳng hay thân là huyễn;
Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm.
(Tặng Chùa Hương Sơn-Huế)
12. Bảo ấn trông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liểu ngộ;
Tịnh quang cao đức, Tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quang thông.
Dịch
Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm liẽu ngộ;
Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vật thẳm trí dung thông.
(Tặng Chùa BảoTịnh Phú Yên)
13. Tục đoạn khởi thần chung thức đắc triêm trần bất trước nhãn;
Vinh khô thành mộng huyễ giác lai thế giới tổng duy tâm.
Dịch
Tiếp dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không nhắm mắt;
Tươi khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm.
(Tặng Chùa Tây Thiên-Huế)
14. Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông.
Dịch
Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức Tâm, Tâm tức Phât, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
(Tặng một số Chùa)
15. Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt;
Triêu kin kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng.
Dịch
Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.
16. Hoa bảo phiệt phiến từ hàn, bạt tế ái hà danh lợi khách;
Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê chơn.
Dịch
Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
(Tặng Khuôn hội Phật giáo An Dương-Huế)
17. Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;
Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.
Dịch
Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật linh linh như cảnh sắc;
Đài sen vắng lặng, vần mây hiển hiện tường quang.
18. Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát;
Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan.
Dịch
Cây vút tầng không, báy báu trang nghiêm cỏi Phật;
Rừng tùng xanh tốt, bốn bề non biếc của thiền.
19. Thiên bách ức kim, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa;
Tam thập nhị bảo tướng từ quang biếng chiếu cứu vạn loại xuất mê đồ.
Dịch
Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác;
Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
(Ba cặp đối trên tặng chùa Bát Nhã Phú Yên)
20. Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt;
Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không.
Dịch
Gặp cảnh thâm u cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
Ở non khoán hoạt, chuông chiều mõ sớm rõ sắc không.
21. Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo;
Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân .
Dịch
Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh trên đường giác;
Gió từ phơ phấp, mát cùng vạn loại khỏi bến mê.
22. Tận xã Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ;
Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm.
Dịch
Bỏ hết Tham , Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm là Thánh tâm.
(Tặng cho Chùa Diêu Bình Quảng Trị)
23. Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp;
Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh.
Dịch
Gặp cảnh u thâm, mõ sớm chuông chiều tiêu lũy kiếp;
Ở nơi khoán hoạt, hoa đồng cỏ nội ngộ ba sinh.
(Tặng chùa Khánh Sơn-Huế)
24. Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng Như Lai liên tọa thượng;
Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung.
Dịch
Tay sạch đốt hương đàn, thhế giưói ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa;
Tâm thành trì hiệu Phật, trăm lẻ tám lần thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giũa hoa sen.
25. Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh.
Trước nước biếc, sau non xanh, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh.
(Tặng Chùa Hải Ấn Nha Trang)
26 . Phật bất ly tâm, động tịnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ.
Dịch
Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Chí nơi đạo cả, đến khi vô ngại ngộ cơ thiền.
27. Trí tuệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn;
Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong.
Dịch
Tâm trí tuệ mở bày, vạn kiếp hôn mê liền dứt sạch;
Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong.
28. Chấp ngã chấp chơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn;
Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm há dung thông ?
Dịch
Chấp ngã chấp chơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi ?
Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông.
(Tặng Khuôn hội Phật giáo An Bằng-Huế)
29. Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hưu đạo;
Triền lục căn, tam tịnh nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh.
Dịch
Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo;
Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh.
30. Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo;
Thí vô nguyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ.
Dịch
Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn;
Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê.
31. Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn;
Tâm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn.
Dịch
Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác;
Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không.
(Tặng Chùa Kim Quang-Huế)
32. Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chị giả phi không phi hữu;
Tâm nguyện tịch tịch, tức hồ thủ vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu;
Dịch
Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có;
Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo.
(Tặng Chùa Bảo Lộc Lâm Đồng)
33. Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch;
Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương.
Dịch
Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tươi khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào Khê cam lộ;
Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xưa nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hươngGiải thoát Liên trì.
34. Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt;
Nhất sanh kỳ khí túng cao phong.
Dịch
Mấy độ công huân dài cùng trăng sáng;
Một đời kỳ khí ngút tận núi cao.
35. Thử địa hửu dưyên tang tịnh cốt;
Giá sơn đắc dự ngộchân nhân.
Dịch
Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt;
Núi nấy vinh dụ gặp chân nhân.
(Câu đối ở tháp Hòa Thượng Thích Thiện Minh chùa Thuyền Tôn-Huế)
36. Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh vô ngại;
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
Dịch
Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại;
Màu non, màu nước, màu mây khói,màu màu cũng vẫn không.
37. Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xã mạng thí thân, cứu độ chúng sanh xuất mê đồ khổ thú;
Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn.
Dịch
Xưa ấy từng làm con hiếu, làm vua hiền, xã mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ;
Đời nầy lại bỏ Quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền.
38. Thị chúng sanh như xích tử, khải ngộ trừ mê, bi cức tam luân khuých ngũ thừa nhi thùy phạm;
Đỗ pháp giới nhược không hoa, tiền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm quy;
Dịch
Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót tam luân, mở ngũ thừa mà ban khôn phép;
Ngắm pháp giới tợ hoa không, tỏ căn dứt tướng, trí tròn thập lục, suy vạn tượng để tập nghiêm quy.
39. Phạn thực dĩ đa thì, chỉ đò kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích cac đầu trùng tấn bộ;
Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo mtham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y.
Dịch
Cơm chín đã từ lâu, tỏ tranh hình thấy tâm tính, lời dứt biết ngay chỗ về, đấu sào trăm thước còn cất bước;
Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y.
40. Bát nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
41. Bồ đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng lực từ tôn.
Dịch
Bát nhã vốn không lời, rời bốn vế, trừ trăm khôn, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng vô biên;
Bồ đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ năm mắt, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng đại lực.
41. Chí đạo bất ngại ngôn ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy băng sài giai diệu dụng;
Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chon diện mục, ma chuyên thụ chi tổng thiền cơ.
Dịch
Đạo rốt ráo đâu phải thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chựac củi nè đều là diệu dụng;
Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xuă nay, mài ngói gạch, giơ ngón taycũng chỉ thiền cơ.
(Tặng chùa Thuyền Tôn-Huế)
42. Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc;
Quang ham vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si.
Dịch
Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc;
Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si.
43. Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
Chứng Tam bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm.
Dịch
Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sâm si mạn phải quyết dứt trừ;
` Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện.
(Tặng Chùa Vĩnh Quang)
44. Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật;
Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền
Dịch
Lý dứt hai bên, là tâm là vật;
Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền.
45. Về già lam nhi thanh tịnh;
Hộ Phật pháp dĩ trường tồn.
Dịch
Giúp già lam thành thanh tịnh;
Hộ Phật Pháp được trường tồn.
46. Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa;
Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị ngôn.
Dịch
Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất;
Ta người cùng lợi vào cửa không hai.
47. Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị;
Phật ngôn quảng đại, xuất nhập tùy duyên.
Dịch
Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
Cửa Phật quảng đại, ra vào tùy duyên.
48. Nhập thử môn tham sân si mạn;
Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi.
Dịch
Vào cửa đây không tham sân si mạn;
Lên đất nầy có hùng lực từ bi.
49. Phước huệ viên tu chơn phật tử;
Trí bi song vận đại từ tôn.
Dịch
Phước huệ tròn tu chính người phật tử;
Trí bi đầy đủ ấy bậc đại từ.
50. Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại;
Từ bi nguyện lưc Diệm Nhiên Vương.
Dịch
Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn;
Diệm Nhiên Vương theo sưc nguyện tỏ từ bi.
(Câu đối tặng Chùa Già Lam TP Hồ Chí Minh)
51. Đại từ đại bi mẫn chúng sanh, ứng hóa tùy duyên thân kỳ thân nhi kỳ địa;
Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi, thiên trung thiên.
Dịch
Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hóa, thân với thân như đất với đất;
Đại hỷ đai xả tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời.
52. Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử;
Tôn phong thành phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị mon.
Dịch
Mát thường nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả;
Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào của không hai.
(Tặng Chùa Từ Tôn Biên Hòa)
53. Hai bài kệ thỉnh chuong U minh:
Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tức giai văn,
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác.
Dịch
Nguyện tiếng chuông nầy lan khắp nơi,
Tận cùng hang thẳm đến muôn loài,
Nghe chuông lóng sạch lòng ô trược,
Hưởng cảnh an vui giữa cuộc đời.
54. Kệ nghe chuông:
Văn chung thinh, Phiền não khinh,
Trí tuệ trưởng, Bồ đề sinh,
Ly địa ngục, Xuất hỏa khanh,
Nguyện thành Phật, Độ chúng sanh.
Dịch
Nghe tiếng chuông, Phiền não nhẹ,
Trí tuệ lớn, Bồ đề sinh,
Lìa địa ngục, Thoát hầm lửa,
Nguyện thành Phật, Độ chúng sinh.
55. Đạo thọ hoa khai hương mãn kỉnh;
Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào.
Dịch
Cây đạo nở hoa đường hương ngập;
Rừng thiền trăng sáng tổ chim về.
(Tặng Sư Bà Diệu Không nhân này mừng thọ 85 tuổi)
56. Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu;
Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khẩu chỉ tam thanh.
Dịch
Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, Văn tự đâu cần, khi nêu hoa mĩm miệng;
Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.
(Viết cho Chùa Linh Sơn Pháp Bao ở Nha Trang Khánh Hòa)
57. Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung, phún thủy cửu long tề mộc dục;
Vi độ Quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh, hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham.
Dịch
Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngặm hoa chầu.
(Tặng Chùa Vô Ưu TP. Hồ Chí Minh)
58. Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn qui giác đại;
Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm.
Dịch
Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.
(Tặng Chùa Vạn Đức TP. Hồ Chí Minh).
VanhoaPhatgiaophapbao
Phật giáo thị nhập thế nhi phi yếm thế
từ bị nãy sát sanh dĩ độ chúng sanh
MT sưu tầm
**************************
CÂU ĐỐI THIỀN MÔN (phần 2)
Bên hồ dựng chùa thiền, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già dựng xây pháp tràng khắp chốn;
Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức tâm, tâm tức Phât, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.
Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật linh linh như cảnh sắc;
Đài sen vắng lặng, vần mây hiển hiện tường quang.
Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác;
Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
Gặp cảnh thâm u cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
Ở non khoán hoạt, chuông chiều mõ sớm rõ sắc không.
Bỏ hết Tham , Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm là thánh tâm.
Gặp cảnh u thâm, mõ sớm chuông chiều tiêu lũy kiếp;
Ở nơi khoáng đạt, hoa đồng cỏ nội ngộ ba sinh.
Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền.
Tâm trí tuệ mở bày, vạn kiếp hôn mê liền dứt sạch;
Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong
Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
Cửa Phật quảng đại, ra vào tùy duyên.
Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mĩm miệng;
Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.
Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu.
Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.
**************************
Câu đối & Hoành phi
花 朝 日 暖 青 鸞 舞
柳 絮 風 和 紫 燕 飛
Hoa triêu nhật noãn thanh loan vũ.
Liễu nhứ phong hòa tử yến phi.
Sớm hoa ngày ấm loan xanh múa.
Liễu bông gió thuận én biếc bay.
度 花 朝 適 逢 花 燭
憑 月 老 試 步 宮
Độ hoa triêu thích phùng hoa chúc.
Bằng nguyệt lão thí bộ nguyệt cung.
Độ hoa sớm đúng giờ hoa đuốc.
Nguyệt lão se sánh bước cung trăng.
花 月 新 粧 宜 學 柳
雲 窗 好 友 早 裁 蘭
Hoa nguyệt tân trang nghi học liễu.
Vân song hảo hữu tảo tài lan.
Trăng hoa vẻ mới nên tìm liễu.
Cỏ thơm bạn tốt sớm trồng lan.
蕭 吹 夜 色 三 更 韻
粧 點 春 容 二 月 花
Tiêu suy dạ sắc tam canh vận.
Trang điểm xuân dung nhị nguyệt hoa.
Tiếng tiêu thủ thỉ suối ba canh.
Vẻ xuân tô điểm hoa hai tháng.
汗 濕 紅 粧 花 帶 露
雲 堆 綠 鬢 柳 拖 煙
Hãn thấp hồng trang hoa đới lộ.
Vân đôi lục mấn liễu đà yên.
Hoa nặng sương đêm áo đẫm nước.
Liễu tuôn khói sớm tóc vờn mây.
花 朝 春 色 光 花 竹
柳 絮 奇 姿 畫 柳 眉
Hoa triêu xuân sắc quang hoa chúc.
Liễu nhứ kỳ tư hoạ liễu my.
Hoa sớm sắc xuân rạng đuốc hoa.
Liễu trông vẻ lạ tô mày liễu.
**************************
Lầu gió đi về bóng sắc không.
2. Hiên ngang cưỡi gió đè mây, nêu đường chính giác;
Đường bệ đội trời đạp đất, trấn cõi Niết bàn.
Câu đối nôm Tam quan chùa Ngọc Hồ (Phố Nguyễn Khuyến - Hà Nội)
1.Cuộc doanh hoàn đương củi quế gạo châu, cấp của làm duyên, gọi chút được tròn quả phúc;
Chốn thành thị cũng non Bồng nước Nhược, lên chùa lễ Phật, kìa ai mến cảnh chiền già.
(Làm duyên = làm phúc; chiền già: tức chùa chiền. Do chữ Hán: Già Lam tức nhà chùa. Câu đối này đắp bằng vữa xi măng, khoảng đời Nguyễn, lối chữ 6 phần Lệ, 3 phần Khải, 1 phần Triện, rất đep. Sợ rằng sau thời gian dài, sơn sửa lại nhiều sẽ hỏng. Rất đáng tiếc)
Câu đối Nôm cổng chùa Quang Hoa (bên hồ Thiền Quang - Hà Nội)
1. Khi mây quang, lúc mưa hoa, xưa nay thế giới;
Sáng vừng ô, tối bóng thỏ, mở đóng càn khôn.
(Câu này rất hào sảng, mà vẫn rõ ý Vô Thường của nhà Phật)
**************************
Thạch kính hữu trần phong tự tảo;
Thiền môn vô tỏa nguyệt thường lâm.
石徑有塵風自掃;
禪門無鎖月常臨。
(Ngõ đá có bụi thì gió lại tự quét đi;
Cửa thiền không khoá, nên trăng thường vẫn đến)
Câu đối cổng chùa Đồng Quang - Đống Đa HN:
同歸來萬善;
光普被群生。
ĐỒNG quy lai vạn thiện;
QUANG phổ bị quần sinh.
(Cùng trở về với muôn điều thiện;
Sáng soi khắp mọi chúng sinh)
Hai câu này chỉ là một đôi liến ngắn (5 chữ) nhưng vẫn có 2 chữ đầu lấy 2 chữ tên của chùa .
Câu đối cổng chùa Thiền Quang - HN:
禪門廣大真常樂;
光景慈悲法界觀。
THIỀN môn quảng đại chân thường lạc;
QUANG cảnh từ bi pháp giới quan.
(Cửa thiền rộng rãi thật là nơi thường lạc thực sự;
Quang cảnh từ bi là cảnh quan nơi cõi Pháp)
Đặc biệt câu đối cổng chùa Quang Hoa (lại chùa Quang Hoa) bên hồ Thiền Quang - Hà Nội, hai chữ tên chùa này còn thấy ở giữa câu, chứ không phải đầu câu nữa. Cụ thể có thể xem qua các câu sau:
Câu đối Nôm:
QUANG cảnh tốt tươi, cửa Phật tiêu dao người tám cõi;
HOA hương ngào ngạt, lối trần hoan hỉ khách mười phương.
Câu đối Hán:
蓮座光生長引金繩開覺路;
池塘花映接來寶筏渡迷津。
Liên tọa QUANG sinh, trường dẫn kim thằng khai giác lộ;
Trì đường HOA ánh, tiếp lai bảo phiệt độ mê tân.
無邊光景一時新,山水縈迴成畫本;
不盡花香三界舊,竹松幽雅獲清修。
Vô biên QUANG cảnh nhất thời tân, sơn thủy oanh hồi thành họa bản;
Bất tận HOA hương tam giới cựu, trúc tùng u nhã hoạch thanh tu.
僧到佛來,光被萬家千古燭;
地靈天寶,花開十仗四辰蓮。
Tăng đáo Phật lai, QUANG bị vạn gia thiên cổ chúc;
Địa linh thiên bảo, HOA khai thập trượng tứ thời liên.
**************************
1. “Thiền thiên khải thánh (Trời thiền sinh thánh)
2. “Chiêu Thiền tự” (Chùa Chiêu Thiền)
3. “Tuệ nhật” (Ánh tuệ - Mặt trời trí tuệ)
Trí tuệ Phật có thể chiếu sáng những chỗ tăm tối ở thế gian. Bởi vậy trí tuệ đó như mặt trời.
4. “Từ vân” (Mây lành)
Lòng từ bi quảng đại của đức Phật như đám mây lành che chở cho chúng sinh.
5. “Long Hoa hội” (Hội Long Hoa)
Khi đức Di lặc thành Phật, ngài ngồi ở dưới gốc cây long hoa, cánh hoa như đầu rồng nên gọi là long hoa. Ngày 8 tháng tư các chùa thiết trai lấy nước ngũ hương tắm Phật, tổ chức hội Long Hoa tượng trưng cho việc đức Di lặc hạ sinh.
6. “Nguyệt chi hằng” (Trăng vĩnh cửu - Nguyệt tròn đầy)
7. “Vi chi hiển” (Màu nhiệm rõ ràng)
8. “Kỷ sinh tu đáo” (Mấy kiếp tu nên)
9. “Chí tai khôn nguyên” (Lớn thay đức mẹ)
10. “Tổ ấn trùng quang” (Nếp tổ lại sáng ngời)
11. “Lý triều thánh đế” (Thánh đế Lý triều)
12. “Thánh cung vạn tuế” (Chúc thánh muôn năm)
13. “Hiển đế hóa thân” (Vĩnh hiển làm vua, biến hóa nên thần)
14. “Thánh đức nan tư” (Đức độ của thánh khôn lường)
15. “Thần công mạc trắc” (Công lao của thần khó mà tính được)
16. “Khâm phúc tứ dân” (Ban phúc cho dân)
17. “Túc ung” (Nghiêm túc hài hòa)
18. “Tĩnh khiết” (Tĩnh lặng, trong sạch)
19. “Thiền quynh nhật lệ” (Cửa thiền ngày đẹp)
20. “Phật tức tâm” (Phật là tâm)
21. “Tục lữ tiêu” (An niềm tục lụy)
22. “Không thị sắc” (Không là sắc)
Không và sắc là thuật ngữ của Phật giáo. Không có nghĩa là trống không, không có thật. Tất cả các sự vật trong tam giới đều không phải là thật. Nhận ra điều đó tức là Không. Phật giáo cho hết thảy cái gì có hình có tướng đều gọi là Sắc.
23. “Tĩnh tâm trần” (Lắng bụi lòng)
24. “Thất tịnh hoa” (Bảy hoa sen thanh tịnh)
25. “Khai kim thế giới” (Cõi vàng rộng mở)
26. “Diệu sắc thân” (Diệu sắc (Surùpa) phiên âm theo tiếng Phạn là Tô lâu ba. Sắc tướng báo thân báo độ của Phật tuyệt diệu không thể nghĩ bàn).
27. “Vô dữ đẳng” (Không gì sánh kịp)
28. “Kim ngọc lâu đài” (Lâu đài vàng ngọc)
29. “Diệu giác khế thiền tâm, Lý đại Bạch Liên tiêu đặc tuyển,
Xuân dương khai thắng hội, Sài nham Bích động đối linh quang”
(Diệu giác hợp lòng thiền, triều Lý Bạch Liên ngôi sáng tỏ,
Xuân dương mừng hội lớn, núi Thầy Bích Động ánh linh thiêng).
Diệc giác: Sự giác ngộ kỳ diệu. Thuật ngữ Phật giáo để chỉ tự mình giác ngộ (tự giác) và giác ngộ cho người khác (giác tha).
Xuân dương: chỉ mùa xuân.
30. “Nghĩa đại tiêm cừu, Tô Lịch trường lưu thiên thủy bích,
Cơ thần diệu hóa, Sài nham di tích thạch đài hương.”
(Nghĩa lớn báo thù, Tô Lịch chảy xuôi dòng nước biếc,
Mưu thần kỳ diệu, núi Sài lưu mãi đá rêu hương).
31. “Sài Lĩnh hưởng truyền kim cổ độc,
Tô Giang phái dẫn thủy thiên trường”
(Tiếng vọng núi Thầy xưa nay có một
Nước xuôi sông Tô chảy mãi không cùng).
32. “Tự hữu huy hoàng nghiêm thánh tượng
Phật tiền thí xả độ quần sinh.”
(Trước Phật chúng sinh ơn tế độ
Bên chùa tượng Phật dáng uy nghi).
33. “Sài Sơn thanh hóa, đế trụ tiền thân, Lạc Việt thiên thu tồn hiển tích.
Thiên tự linh quang, thiền môn thắng cảnh, Long Thành vạn cổ thử danh lam”
(Sài Sơn hóa thánh, kiếp trước của vua, Lạc Việt nghìn thu lưu tích cũ;
Chùa trời linh ứng, thắng cảnh thiền môn, Long Thành muôn thuở đất danh lam).
34. “Đống vụ nguy nguy hiển ứng trường chiêu thần diệu thuật,
Môn quynh đăng đãng ngưỡng chiêm như kiến Phật chân kinh.”
(Lầu điện nguy nga, phép diệu thần thông soi tỏ mãi
Cửa thiền lồng lộng ngước nhìn như thấy Phật chân kinh).
35. Không không sắc sắc thiên thu Phật
Hóa hóa sinh sinh thượng đẳng Thần
(Không không sắc sắc ngàn thu Phật
Hóa hóa sinh sinh thượng đẳng Thần.)
36. “Bát diệp sơn hà thanh hạc mộng
Thiên thu phàn tử ấp long môn”
(Tám lá non sông trong mộng hạc
Ngàn thu thôn ấp hướng long môn).
Bát diệp: Chỉ tám đời vua triều Lý.
37. “Sinh hóa hà niên tiên thị đế
Anh linh thử địa thánh nhi thần”
(Sinh hóa năm nào tiên hóa đế
Anh linh cõi ấy thánh bên thần).
38. “Học đạo Tây thiên, Sài Lĩnh thiên thu truyền Phật tích,
An dân Nam địa, Lý triều tái thế hiện Vương thân.”
(Học đạo Tây thiên, Sài lĩnh ngàn thu truyền Phật tích,
An dân đất Việt, Lý triều tái thế hiện Vương thân).
39. “Không không sắc sắc đoàn tuệ quả ư bát đan, An Lãng tự di dung vạn kỷ thanh linh chiêm giả kính,
Hóa hóa sinh sinh thoát nạp y nhi cổn miện, Phật Tích sơn cổ động thiên thu truyền ký ngưỡng di cao.”
(Không không sắc sắc, tròn quả phúc ở bát đan, chùa An Lãng di tích nơi đây, tiếng linh thiêng muôn đời chiêm bái,
Hóa hóa sinh sinh, cởi cà sa thay cổn miện, núi Phật Tích động xưa còn đó, chuyện thần kỳ ngàn thuở lưu danh).
Bát đan: Vật để đỡ lót ở dưới bát đựng thức ăn của các nhà sư.
Nạp y: Áo cà sa.
Cổn miện: Lễ phục nhà vua.
40. “Nhàn thú thị Tiên, bất tất Bồng Lai, Hải đảo,
Tâm thành tức Phật, hà tu Tây Trúc, Thiên Thai.”
(Nhàn thú là tiên, chẳng cứ Bồng Lai, Hải đảo;
Tâm thành tức Phật, cần chi Tây Trúc, Thiên Thai).
41. “Ngũ giới chân truyền khải địch hậu nhân thâm tự hải,
Nhất thành trai bạt kiều chiêm Bắc đẩu trọng như sơn).
(Ngũ giới còn truyền răn bảo người sau sâu tựa biển,
Nhất thành trai bạt ngẩng xem Bắc đẩu nặng nhường non).
Ngũ giới: chỉ năm điều cấm của những người theo đạo Phật: không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói càn, uống rượu.
42. “Khởi thị thuyết hoang đường, thần thánh đản sinh giai thực lục,
**************************
假作真時真亦假,
無為有處有還無.
GIẢ TÁC CHÂN THỜI, CHÂN DIỆC GIẢ;
VÔ VI HỮU XỨ, HỮU HOÀN VÔ .
Nghĩa:
Giả nghĩ thành chân, chân cũng giả,
Trong không có có, có lại không.
**************************
青 春 有 限 志 無 限
歲 月 無 情 人 有 情
Thanh xuân hữu hạn chí vô hạn
Tuế nguyệt vô tình nhân hữu tình.
Tuổi xanh có hạn chí vô hạn,
Năm tháng vô tình người có tình
**************************
Thiên khả đạc, Địa khả lường,
Duy hữu nhân tâm bất khả phòng.
Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhân tri diện bất tri tâm.
Nghĩa là:
Trời có thể đo, Đất có thể lường,
Duy có lòng người thì chẳng thể phòng được.
Vẽ cọp vẽ da khó vẽ xương,
Biết người biết mặt chẳng biết lòng.
Minh Tuệ sưu tầm