;
Tóm tắt. Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) quê làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, phủ Phú Yên, hiện nay là thôn Trường Xuân thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Khi còn rất nhỏ thiền sư Liễu Quán đã vào tu ở chùa Hội Tôn tại quê nhà, sau đó ông ra Thuận Hóa và đã từng học đạo với các thiền sư thuộc cả hai thiền phái có gốc từ Trung Quốc, đó là Lâm Tế và Tào Động. Quảng đường tu họccủa ông trải nhiều gian lao với nhiều phương pháp khác nhau, nhưng chính vì vậy
mà ở ông đã hình thành một phong cách mới: đó là quan niệm Lâm Tào tổng hợp,
tức là đã có sự kết hợp một cách hài hòa và tự nhiên những tinh hoa của cả hai phái
thiền lớn thời bấy giờ ở Thuận Hóa. Không những thế, thiền sư Liễu Quán đã trở
thành người có công trong việc đưa Phật giáo xích gần thêm với văn hóa dân tộc,
đặc biệt là ở lĩnh vực tín ngưỡng dân gian, góp phần quan trọng trong việc chấn
hưng Phật giáo ở thế kỷ XVIII. Sự nghiệp của ông đã có ảnh hưởng rất sâu rộng
trong quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam từ đó đến nay.
Liễu Quán (1667-1742) là một vị thiền sư nổi tiếng ở xứ Đàng Trong từ thế kỷ
XVIII. Ông họ Lê, pháp danh là Thiệt Diệu, tự là Liễu Quán, người làng Bạc Mã, huyện
Đồng Xuân, phủ Phú Yên, nay là thôn Trường Xuân thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện
Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sinh vào giờ Thìn, ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667),
mất vào giờ Mùi, ngày 22 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1742). Liễu Quán vào chùa từ 6
tuổi sau khi mẹ mất, đảnh lễ học đạo với hòa thượng Tế Viên, một thiền sư người Trung
Quốc thuộc thiền phái Lâm Tế, là vị tổ khai sơn chùa Hội Tôn, một ngôi chùa cổ ở Phú
Yên1. Qua bảy năm tu tập, sau khi bổn sư viên tịch, Liễu Quán một mình tìm ra xứ
Thuận Hoá đảnh lễ thọ giáo với hòa thượng Giác Phong, cũng là một thiền sư từ Trung
Quốc và là tổ khai sơn chùa Thiên Thọ tức là chùa Báo Quốc ở Huế hiện nay. Đến đây
vừa tròn một năm tu học, năm Tân Mùi (1691), Liễu Quán phải quay về quê để chăm
sóc thân phụ. Bốn năm sau khi thâ