;
Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Thanh (1935 – 1995)
Kỷ niệm ngày Viên tịch lần thứ 18 cố Hòa thượng Thích Thiện Thanh, một vị Tăng xuất thân từ quê hương Sa Đéc hiền hòa, Khai sơn chùa Phật Tổ, Long Beach, Hoa Kỳ, một vị tiền bối phúc trí trang nghiêm, suốt đời cống hiến cho Đạo pháp Dân tộc, một trong những Thạch trụ Tòng lâm để tứ chúng phật tử Hải ngoại noi theo tu học. Trân trọng kính ôn lại hành trạng của Ngài để soi đường dẫn bước cho thế hệ mai sau.
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh thuộc dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41, pháp húy Không Sắc hiệu Thiện Thanh, tục danh Nguyễn Văn Sắc, sinh năm Ất Hợi (1935) Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 20. nguyên quán làng Phú-Nhuận, Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðéc miền Nam nước Việt (nay thuộc xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu đều kính tin Tam Bảo.
Ngài là bậc đồng chơn học đạo. Khi lên tám tuổi Ngài được Ðại Lão Pháp sư Thích Bửu Chung tiếp độ quy y Tam Bảo tại Tổ đình Phước Long Cổ Tự, Rạch Ông Yên, Nha Mân, tỉnh Sa Ðéc.
Năm Ất Dậu (1945) Ngài đến Tổ đình Kim Huê cầu thế phát xuất gia với Hòa Thượng Huệ Hòa pháp húy Chơn Giảng làm bổn sư và được ban cho pháp danh Không Sắc hiệu Thiện Thanh.
Năm Canh Dần tháng giêng ngày 15 (03/03/1950) Ngài thọ Sa Di giới Đại giới đàn tại Bổn tự Kim Huê, đàn giới này do đại lão Hòa thượng Luật sư Thích Chánh Quả đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
Năm 20 tuổi Ngài thọ đại giới cùng đậu cấp bằng Hán ngữ học tại Trung Tâm Ấn Quang và Ngài giảng pháp lần đầu tiên tại Long Quang Tự đường Nguyễn Huỳnh Ðức, quận Phú Nhuận, Sài Gòn vào năm Tân Sửu (1961).
Năm Giáp Thìn (1964) Ngài được bổ nhiệm làm việc với Tổng Vụ Tăng Sự, phụ trách ngành Tăng Tịch và kiêm nhiệm Trưởng Ban Tăng Tịch cho Tổ đình Ấn Quang. Ngài đậu tú tài toàn phần năm Ất Tỵ (1965), dạy Pháp văn tại trường Bồ Ðề Chợ Lớn và du học Thái Lan do chính phủ Thái đài thọ.
Năm Đinh Mùi (1967) Ngài từ Thái Lan sang Ấn Ðộ nghiên cứu các đề tài thuộc Phật Giáo Nguyên Thủy tại Viện Nalanda Pali Research Institute, Bihar.
Năm Mậu Thân (1968) Ngài đậu bằng Cao Học Cổ Ngữ (Palyacharya) tại Ðại Học Sankrit University Darbhanga.
Năm Tân Hợi (1971) Ngài đậu thêm cử nhân và cao học Anh văn.
Năm Bính Thìn (1976) Ngài đậu tiến sĩ tại Ðại Học Magadha Gaya với Luận án “A Comparative Study of the Pali Digha Nikaya and China Agama” so sánh Trường Bộ Kinh với Kinh Trường A Hàm.
Ngài còn là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá trị như:
1- Phật Giáo Ấn Ðộ Ngày Nay.
2- Phật Giáo trong Việt Nam, Ấn Ðộ hay Trung Hoa.
3- Hoàng Ðế Asoka.
4- Bốn Ðức Tánh Cao Quý của Giác Ngộ.v.v.
Ngài được chính phủ Ấn Ðộ mời dạy ngữ học và lịch sử tại Ðại Học Sri VekaTesvana, Tirapati. Trước đó Ngài cũng đã được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa mời về làm Viện Trưởng Ðại Học Cần Thơ.
Năm Mậu Ngọ (1978) Ngài từ việc ở Ðại Học Sri VekaTesvana, Tirapati, sang Mỹ dưới sự bảo trợ của chùa Việt Nam (Los Angeles), nhận chức Phó Chủ Tịch Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ (12/78) kiêm giảng sư của Ðại Học University of Oriental Studies tại Los Angeles.
Năm Kỷ Mùi (1979) Ngài nhận chức Giám đốc Trung Tâm Tỵ Nạn Ðông Dương.
Kể từ đầu thập niên 80 cho đến khi viên tịch Ngài về Long Beach, thành lập hội Phật Giáo Long Beach và xây dựng Tự Viện Phật Tổ. Với ý chí phục vụ đạo pháp và hướng dẫn Phật tử sống xa thành phố Los Angeles, Ngài không quản khó khăn, tận tụy hoằng hóa độ sanh cho đến hơi thở cuối cùng. Quả thật vậy, tuy thân xác Ngài thập tử nhất sinh ở bệnh viện nhưng tâm niệm Ngài vẫn không ngớt âu lo cho lễ Phật Ðản tại Bổn Tự Phật Tổ.
Nhưng niềm lo lớn nhất của Ngài là công việc nghiên cứu và dịch thuật đang dang dở; Ngài đã thực hiện được những công trình biên soạn:
1- Tập “Nghi Thức Tụng Niệm Hằng Ngày” ngắn ngọn và dễ hiểu phù hợp với nhu cầu thiết yếu của giới Phật tử hải ngoại.
2- Hai tập đầu của “Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm” in khổ lớn, trình bày hết sức mỹ thuật, tổng cộng gần nghìn trang. Ðây là một công trình lớn lao đòi hỏi một sự cộng tác của nhiều học giả nghiên cứu phân tích tài liệu, Ngài viết “Khi dịch, dịch giả đã cân nhắc cẩn thận sợ rằng :“Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”.
Vì vậy, mất quá nhiều thì giờ, dịch giả phải so sánh bản chữ Hán này với bản Sanskrit…”. Với sự hiểu biết nguyên thâm về Phật pháp của một tu sĩ công phu thiền tập với Lục Diệu Pháp Môn, với một căn bản cổ ngữ và ngoại ngữ phong phú của một học giả nghiêm túc, Ngài biết trước công việc mình cần phải làm nên thường nói: “Tôi cần phải phiên dịch bộ Hoa Nghiêm vì không còn sống bao năm .. .”
Ngài là một bậc cao Tăng đầy đủ mọi đức tính Từ bi hỷ xả, luôn luôn tận tình vì đạo, sống đơn giản, đạm bạc, tuy nghiêm với mình và khoan dung với người nhưng không chấp nhận xa hoa hay cẩu thả, tuy khiêm nhường từ tốn nhưng vẫn hài hước trào phúng mà không mất lòng ai.
Tự Viện Phật Tổ là một ngôi chùa tôn, chật hẹp, tối tăm, oi bức mùa hè, ẩm thấp mùa đông, nằm giữa một khuôn viên “Chung cư bàn Cờ”. Bao nhiêu thù lao dạy học gom với tịnh tài thí chủ, thay vì xây chùa cao cổng rộng Ngài chuyển sang mục phiên dịch và ấn tống kinh sách nên luôn luôn túng thiếu. Mãi cho đến giờ Viên tịch, đệ tử mới biết Ngài mặc áo quần vá tại xứ Hoa Kỳ.
Trăm năm ba vạn sáu ngìn ngày;
Gắng công suy xét nguyên lai là gì ?
Sau thời gian điều trị bệnh tại bệnh viện, nhân duyên Ta Bà quả mãn, Ngài an nhiên thu thần tịch diệt vào lúc 10:40 ngày 21 tháng 6 năm Ất Hợi (18.07.1995).
Hưởng thọ 61 Xuân.
An cư 40 Hạ.
Mười lăm năm cuối cùng ngắn ngủi sống với kinh Hoa Nghiêm tại Tự Viện Phật Tổ, Mỹ Quốc chính lại là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời tại thế độ sanh của một bậc đồng chơn nhập đạo.
Thích Vân Phong lược soạn