;
Buổi lễ dưới sự tham dự của HT. Thích Hiển Tu, HT. Thích Viên Giác – Thành viên HĐCM GHPGVN; HT. Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS; HT. Thích Trí Quảng – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng Ban Phật giáo Quốc tế TW, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh; HT. Thích Thiện Pháp – Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng 2 TWGH; chư Tôn giáo phẩm HĐTS, các Ban, Viện Trung ương, Ban Trị sự Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, 24 Ban Đại diện Phật giáo quận, huyện và hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử tham dự.
Buổi lễ hân hạnh đón tiếp ông Trần Trung Tính – Phó Chủ tịch UBMTTQVN Tp. Hồ Chí Minh; bà Lưu Thị Đính – Chủ tịch UBMTTQVN quận 3; quý ông, bà đại diện các Sở, ngành Tp. Hồ Chí Minh, quận 3 và phường 8 sở tại.
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN cung tuyên Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận – Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam:
“I. THÂN THẾ :
Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Pháp hiệu Thanh Thiệu, Pháp danh Đức Huy, thế danh Phạm Đức Hạp, sinh năm Đinh Dậu (1897) tại thôn Quần Phương, xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (nay là tỉnh Hà Nam). Thân phụ là cụ Phạm Công Toán hiệu Thành Phủ, thân mẫu là cụ Lê Thị Vụ. Ngài là con thứ 6 trong gia đình có 8 anh chị em.
Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp nho phong, Ngài bắt đầu đi học từ năm 7 tuổi. Thân phụ Ngài vốn là một danh Đông Y, được Sư Tổ chùa Đồng Đắc (tỉnh Ninh Bình) mời sang để chế thuốc cứu giúp dân làng. Do được theo hầu thân phụ, dần dần Ngài mến mộ cảnh yên tịnh chốn Thiền môn. Năm 15 tuổi (Nhâm Tý - 1912) một thời điểm chuyển mình thoát tục, Ngài nhận chân cuộc đời là vô thường, thân người là giả tạm, nên Ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật.
Ngài sơ tâm cầu pháp với Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa (thuộc dòng Tào Động, chùa Quảng Bá - Hà Nội) Trụ trì chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Sau khi thế phát quy y, Ngài được nghiệp Sư gởi đến chùa Thanh Nộn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, học Đạo với Sư Tổ Thích Thanh Ninh, với đức hạnh khiêm cung, siêng năng, hiếu học Ngài luôn được Sư Tổ thương yêu và kỳ vọng là pháp khí của tùng lâm.
Năm 20 tuổi (1917) xuân đạo lý đã đơm bông trí tuệ, tâm bồ đề thơm ngát tỏa giới hương, Ngài được Tôn Sư cho thụ giới Cụ Túc tại chùa Phúc Nhạc (Già Lê Tự) tỉnh Ninh Bình. Giới đàn này gồm các bậc cao Tăng thạc đức như Sư Tổ Thích Thanh Khiết làm Hòa thượng Đàn Đầu, Sư Tổ Thích Trung Ninh làm Yết ma, Sư Tổ Thích Thanh Phúc làm Giáo thọ, Sư Tổ Thích Khang Thượng, Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa làm Tôn chứng. Từ đây, Ngài thực sự dự vào hàng Tăng Bảo với trọng trách: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa Quần sinh”.
II. THỜI KỲ XUẤT GIA TU HỌC :
Sau khi đắc Pháp, Ngài tiếp tục hành cước, tham học ở các chốn Tổ lớn như Chốn Tổ Đào Xuyên (huyện Gia Lâm - Hà Nội) do Tổ Giám Thông Mệnh giảng dạy, chốn Tổ Bằng (huyện Thường Tín - Hà Tây) và chốn Tổ Sở (Đống Đa - Hà Nội) do Sư Tổ Phan Trung Tứ thuyết pháp. Trải qua bao năm tháng chuyên tâm tu học tại các chốn Tổ này, Đức Pháp chủ trở thành một bậc đạo hạnh trong sáng, không những uyên thâm Phật học mà còn quán triệt cả Khổng giáo, Lão giáo, trở thành tiêu đích cho hàng Tăng, Ni, Phật tử ngưỡng mộ, quy tâm.
Năm 42 tuổi, nhằm mục đích vị tha, dấn thân trong đại nguyện cứu khổ, độ sinh. Ngài đã phát tâm thọ giới Bồ Tát, do Sư Tổ Thích Doãn Hải, viện chủ chùa Tế Xuyên (tỉnh Hà Nam) chứng đàn.
III. SỰ NGHIỆP HÓA ĐẠO :
Năm 1940, sau khi nghiệp sư viên tịch, Ngài trở về thừa kế, trụ trì Chùa Đồng Đắc, Phật sự đầu tiên được đặt ra trong tâm trí Ngài là đào tạo Tăng tài, tổ chức Giáo hội. Ngài liền thành lập 2 Trường Phật học, một ở chùa Đồng Đắc (xã ĐồngHướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình), và một ở chùa Kỳ Lân (thôn Đại Hữu, xã Văn Bồng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình).
Ngài luôn được chư Tăng Ni, Phật tử cung thỉnh làm chủ hạ các Trường hạ như Trường hạ chùa Phúc Nhạc (Già Lê Tự), Trường hạ chùa Đại Hữu, Trường hạ chùa Sơn Thủy (Non Nước), Trường hạ chùa Lê Xá (huyện Gia Viễn), Trường hạ chùa Bà Đá (Hà Nội) ... Ngài luôn nêu cao uy mãnh Thích Hải Côn bằng tiêu biểu cho ngôi vị Tùng lâm Pháp chủ.
Với đức độ tu hành, giới luật tinh nghiêm, khoảng năm 1950, Hội Phật giáo tỉnh Ninh Bình cung thỉnh Ngài giữ chức Giám Luật Phật giáo tỉnh Ninh Bình để làm tiêu đích cho Tăng, Ni, Phật tử trên con đường tiến tu Tam Vô Lậu Học.
Năm 1955, sau khi hòa bình lập lại, Ngài được Cố Hòa thượng Tuệ Tạng, Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc, Hòa thượng Mật Ứng - Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Bắc Việt, cùng các ông Nhất Kinh Phương, Trần Quang Trung đại diện Mặt trận thủ đô Hà Nội mời về thủ đô Hà Nội để chung lo Phật sự.
Trong thời gian này, Ngài được thỉnh về trụ trì chùa Phổ Giác Tự (Đống Đa - Hà Nội). Từ ngôi chùa này, Ngài thường xuyên sang trụ sở Trung ương Giáo hội chùa Quán Sứ, để làm việc. Về sau, do nhu cầu của Giáo hội, Ngài đã ở tại chùa Quán Sứ, và sau đó một thời gian được bổ nhiệm ngôi vị trụ trì chùa Quán Sứ.
Năm 1956, Ngài được bầu làm Trị sự phó Giáo hội Tăng già Bắc Việt, kiêm đại diện Phật giáo Thủ đô.
Năm 1957, Ngài là một trong những thành viên trong Đoàn đại diện đại biểu Phật giáo Việt Nam đến yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Phủ Chủ tịch.
Tháng 3 năm 1958, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam thành lập do Sư cụ Trí Độ làm Hội Trưởng, Ngài được Đại hội suy cử làm Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam.
Năm 1969, Ngài về trụ trì chùa Quảng Bá (Hoàng Ân Tự), xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cũng trong năm này, Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam mở trường tu học Phật Pháp Trung ương tại đây và thỉnh Ngài làm Hiệu trưởng. Đây là một ngôi trường có tổ chức đầu tiên sau ngày miền Bắc giải phóng. Ngài trụ trì giáo hoá độ chúng ở Quảng Bá hơn 20 năm trước khi về chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai).
Năm 1979, sau khi Hòa thượng Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống Nhất Việt Nam thị tịch, Ngài được suy cử làm Quyền Hội trưởng cho đến ngày thống nhất Phật giáo cả nước năm 1981.
Để có nơi an táng Tăng, Ni, Phật tử sau khi mãn phần, năm 1980 Ngài đứng ra xin phép Nhà Nước thành lập nghĩa trang tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cũng trong năm này, Ngài nhận lãnh chức vụ Trụ trì Tổ đình Hồng Phúc cho đến khi viên tịch.
Năm 1980, trong bối cảnh cả nước hoàn toàn độc lập thống nhất, Tăng Ni, Phật tử cả nước mong muốn thực hiện ý nguyện thống nhất Phật giáo Việt Nam. Ban Vận động Thống nhất Phật giáo ra đời, do cố Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng Ban, Ngài được cung thỉnh vào hàng Chứng minh của Ban Vận động Thống nhất Phật giáo cả nước.
Tháng 11 - 1981, Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra tại chùa Quán Sứ, Thủ đô Hà Nội, để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Hội nghị toàn thể đại biểu nhất tâm cung thỉnh Ngài đảm nhận ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cũng tại Đại hội Ngài đã đề nghị ba điểm : Được mở Trường Cao Cấp Phật học tại ba miền Nam, Trung, Bắc và các Trường Cơ bản Phật học tại các Tỉnh; Tăng, Ni được phép xuất gia tu học; được hoạt động tự do tín ngưỡng tại các cơ sở Tự viện trong cả nước. Đề nghị trên đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng chấp nhận và hứa sẽ thực hiện.
Từ Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo (1981) cho đến Đại hội Phật giáo kỳ 3 (1992) Ngài luôn được Tăng, Ni, Phật tử cả nước tín nhiệm và tiếp tục suy tôn đảm nhiệm ngôi vị Pháp chủ cho đến ngày thị tịch.
Ngoài Phật sự, Đức Pháp chủ còn tham gia công tác từ thiện xã hội... Ngài được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều khóa. Ngài được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng 1.
IV. THỜI GIAN VIÊN TỊCH :
Theo năm tháng, thân ngũ uẩn vô thường của Hòa thượng đã đến hồi tan hoại. Điều đặc biệt, cho đến ngày sắp viên tịch, trở về với thế giới vĩnh hằng, Hòa thượng vẫn tỉnh giác tự tại, biểu thị một hiện thân của Bồ tát giới đức trang nghiêm, thanh tịnh, sinh tử nhàn nhi dĩ khứ lai vô ngại.
Hòa thượng đã an nhiên thu thần nhập diệt vào lúc 05giờ 05 phút sáng ngày 11 tháng 11 âm lịch (Quý Dậu), nhằm ngày 23.12.1993, trụ thế 97 năm, hạ lạp trải qua 77 mùa an cư kiết hạ.
Xuất thế giới hạnh tinh nghiêm, nhập thế lợi lạc quần sanh, Đức Pháp chủ luôn khơi dòng trí tuệ Văn Thù và thể hiện hạnh nguyện Phổ Hiền tốt Đời đẹp Đạo. Nhờ đó, toàn thể Phật tử Việt Nam được thấm nhuần thâm ơn pháp nhũ và lượng cả từ bi của Ngài. Nay Ngài đã thâu thần thị tịch, toàn thể Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước xin đê đầu kính lạy những bước chân giải thoát của bậc Xuất trần Thượng Sĩ, và nguyện noi theo gương sáng của Ngài trên con đường hoằng dương Phật Pháp, lợi lạc quần sanh”.
Hòa thượng Thích Trí Quảng thay mặt Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam dâng lời tưởng niệm Giác linh Đại lão Hòa thượng Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN:
“Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm thanh tịnh, thể hiện tinh thần tri ân, báo ân của người con Phật, nhân ngày Lễ húy kỵ lần thứ 18, ngày Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận - Đức Pháp chủ GHPGVN trở về thế giới Niết bàn vô tung bất diệt và Hiệp kỵ Chư Tôn đức thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chư Sơn Thiền đức Hội đồng Trưởng lão của các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Việt Nam, chúng tôi xin thay mặt Hội đồng Chứng Minh, Hội đồng Trị sự, Thành hội Phật giáo, Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước, xin có đôi lời tưởng niệm.
Kính bạch Giác linh Đại lão Hòa thượng Pháp chủ,
Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, chốn Hoa Lư một thuở kinh thành, xứ Ninh Bình một kiếp lưu danh, thân đại sĩ một đời thọ mạng, làng Hải Hậu đượm nhuần hương đức hạnh, Hòa thượng sớm phát chí xuất trần từ thuở nhỏ, chốn Kim Liên - Đồng Đắc xuất gia, nêu cao chí cả, nghiên tầm nghiã lý, thấu rõ huyền vi, đèn Thiền sáng tỏ, đạo tâm trác thế, hương giới bay xa, chan hòa vũ trụ. Quả thật, “Nào ai biết được Trời không ấy. Một dãy non xanh hiện đã lâu”.
Hòa thượng đã thắp sáng đèn Thiền Tào Động, khai thông dòng suối Tào Khê, qua sứ mạng truyền thừa Đạo mạch, đào tạo Tăng tài, Hòa thượng đã mở lớp Phật học nhiều nơi, làm cho trăm hoa thạnh phát, Tăng Ni tài đức lần lượt thành danh; các hàng giáo phẩm lãnh đạo Phật giáo ngày nay, cũng bắt nguồn từ đấy. Công đức ấy thật cao như núi, sâu tợ biển Đông.
Bằng hạnh nguyện từ bi cao cả, mãi mãi sáng soi, giới đức hương thơm, đượm nhuần ân tái tạo. Qua bao Trường hương, khóa Hạ, các Đại giới đàn, từng hàng giới tử, lớp lớp học đồ, đã được giới thể chu viên, Huệ mạng chan hòa cùng bản thể, Trường tuyển người làm Phật lần lượt bước vào, tiến lên Thánh quả, lợi lạc quần sanh, báo Phật ân đức.
Trong tinh thần hòa hợp đoàn kết, tứ chúng đồng tu, lục hòa cộng trụ, Cố Đại lão Hòa thượng đã cùng các Giáo hội, tổ chức Hệ phái, hòa hợp cùng nhau xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, kế thừa truyền thống 2.000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam trong lòng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng thống nhất lâu đời của Tăng Ni, Phật tử trong cả nước mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam là đỉnh cao của thời đại.
Trên ngôi vị Pháp chủ tối cao, Cố Đại lão Hòa thượng đã tỏa sáng gương lành, ân đức bao trùm Tăng Ni, Phật tử cả nước, làm hải đăng định hướng cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Qua những những lời khuyến hóa thâm nghiêm, nhân hậu, hàm tàng bao ý nghĩa xây dựng và phát triển ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngày càng phát triển, trang nghiêm, hưng thịnh trong lòng dân tộc trên các lĩnh vực. Và thực tế, gần 30 năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước đã phụng hạnh giáo chỉ của Cố Hòa thượng thực hiện thành công tốt đẹp và có hiệu quả các công tác Phật sự của Giáo hội, làm tốt Đạo đẹp Đời trong hiện tại cũng như tương lai.
Quả thật, đối với công đức của Hòa thượng đã vô cùng to lớn, thì đối với công đức của Chư Tôn đức thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chư Sơn Thiền đức Hội đồng Trưởng lão của các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Việt Nam, Chư tôn Thiền đức Tiền bối hữu công lại càng sâu thẩm như biển Đông, cao hồ non Thái, dài tựa trường sơn dịu vợi. Quý Ngài là những thạch trụ Thiền gia, bậc đống lương trong Phật pháp, tạo thành ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là những vì sao sáng trong vòm trời Đạo pháp, là những bông hoa muôn sắc tô thắm vườn hoa đạo, để có ngày hôm nay. Quả thật:
“Hoa đời, hoa Đạo đua nhau nở,
Mãi mãi ngàn sau vẫn ngát hương”.
Với công đức của Cố Hòa thượng và Chư Tôn đức thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chư Sơn Thiền đức Hội đồng Trưởng lão của các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Việt Nam, Chư Tôn Thiền đức Tiền bối hữu công đã hy sinh cho Đạo pháp, cho Dân tộc và cho chúng sinh, để hôm nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh tiếp tục sứ mạng truyền trì đạo mạch cùng truyền thống tốt Đạo đẹp Đời của tiền nhân đã dày công xây dựng và phát triển qua những thời kỳ khác nhau của lịch sử và xã hội, trong suốt dòng sinh mệnh của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Một lần nữa, hôm nay nhân ngày Lễ Húy kỵ lần thứ 18 Cố Hòa thượng và hiệp kỵ Chư Tôn đức thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chư Sơn Thiền đức Hội đồng Trưởng lão của các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Việt Nam chúng tôi xin được thay mặt Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, Thành hội Phật giáo, Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước, xin thắp nén tâm hương với lòng thanh tịnh, thành kính tưởng niệm công đức và Đạo hạnh của Cố Đại lão Hòa thượng cùng Chư Tôn Thiền đức tiền bối hữu công, để gọi là báo đáp công ân chí trọng cao dày của các bậc tiền nhân đối với Đạo pháp và Dân tộc trong muôn một, đồng thời thể hiện mối tâm giao, tình Pháp lữ đời đời trong Chánh pháp.
Nguyện cầu Pháp thân Hòa thượng và Chư Tôn đức thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chư Sơn Thiền đức Hội đồng Trưởng lão của các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Việt Nam từ bi gia hộ cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam vững bước trên đường đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh, trang nghiêm trong lòng dân tộc, làm tốt Đạo đẹp Đời”.
Quang cảnh Lễ tưởng niệm
Chư Tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, Tăng Ni, Phật tử dâng hương tưởng niệm
HT. Thích Thiện Pháp cảm tạ
TT. Thích Tấn Đạt thông qua danh sách lễ phảm cúng dường
Giác linh Đại lão HT. Pháp chủ GHPGVN
GHPGVN