;
Một ước lệ khác: Hôm ấy ông Công, ông Táo - vị thần tuy 3 mà 1 trong “Tam vị nhất thể” Thổ công - Thổ địa - Thổ kỳ của Đạo giáo được Việt Nam hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà”- vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp - bản nguyên của Nhà từ khi có lửa trong lịch sử loài người, “tách hẳn khỏi giới động vật” - cưỡi Cá Chép bay lên Trời để lại dưới hạ giới một cảnh tượng vô chủ về mặt tâm linh.
Ngày 23 Tết được gọi là Tết Ông Công Ông Táo. Người ta làm cỗ cũng tiến “ông Táo chầu Giời”, người ta mua cá chép sống rồi thả phóng sinh xuống ao hồ sông lạch. Nét biện chứng: Từ trong cái chết đã gieo mầm sự sống.
Một nét biện chứng khác: Ngày 23 tháng Chạp, người ta dựng Cây Nêu. Cây nêu mang ý nghĩa phổ quát của Cây Vũ Trụ; còn gọi là cây Mặt Trời. Để xã hội hài hoà và tương thích với vũ trụ thì từ ngày 23 Tết mọi công việc làm ăn đồng áng - buôn bán - cũng tạm dừng; từ đây không ai được vào rừng khai thác, thu lượm cái gì nữa. Xưa các công thư huyện - tỉnh - trấn xứ và triều đình đều đóng cửa nghỉ việc từ hôm đó, sau khi đã làm lễ “hạp ấn” (niêm phong mọi con dấu, ấn triện...). Đến nhà tù - nói chung - cũng không tiếp nhận tù nhân mới.
Tóm lại đó là sự dừng nghỉ hoàn toàn, để hợp với cái chết tạm thời của vũ trụ.
Nghi thức quan trọng thứ hai của Tết sau Tết Ông Công là giây phút Giao thừa, điểm thời gian chuyển tiết giữa năm Cũ - năm Mới, được huyền thoại quan niệm như sự giao hoà Âm - Dương, phối ngẫu Đất Trời, để từ trong cái Chết - Cũ nảy sinh sự Sống - Mới... Giao hoà, giao hợp là triết lý Phồn Thực.
Một ông Táo mới - hay cũ mà đổi mới - lại xuống trần thế làm chủ nhà - bếp - đất một năm mới. Người ta bầy một mâm cỗ cúng ở ngoài sân để đón ông, mừng ông. Người ta còn thay những Ông Đầu Rau cũ bằng những Ông mới.
Tháng 12 lịch cổ truyền là tháng Lạp - Chạp, người ta đi chạp mả, sửa sang, thắp hương trên các mộ phần, khấn khứa mời ông bà ông vải tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu...
Cùng với mâm cỗ cúng Ông Táo cũ 23 tết là cỗ cúng tổ tiên. Cùng với mâm cỗ cúng đón Ông Táo mới phút giao thừa ngoài sân là mâm cỗ cúng Tổ Tiên trên bàn thờ trong Nhà, gian giữa.
Và 3 hay 5 ngày đầu năm mới là 3 - 5 ngày thường xuyên sửa cỗ cúng Tổ Tiên hưởng “hương hoa”; còn con cháu thụ lộc trong tinh thần Cộng Cảm gia đình - thân quyến.
Tình cảm gia đình của người Việt Nam xưa rất nặng: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà.
Dù đi làm ăn buôn bán nơi đâu quanh năm suốt tháng, gần ngày Tết người ta cũng tìm mọi cách trở về quê, về nhà để cúng Tổ tiên, sum họp gia đình, cộng cảm cùng thân quyến nội ngoại.
Như trên đã nói lối sống, thế ứng xử Việt 3 ngày Tết cổ truyền là:
Mồng Một thì ở nhà Cha
Mồng Hai nhà Mẹ, mồng Ba nhà thầy.
Vì Tết là đổi mới, là sức sống mới nên gam màu chủ đạo của việc trang trí Tết là màu Đỏ - tượng trưng mầu Máu, màu của sự Sống và sự Tái Sinh, theo quan niệm nguyên thuỷ và được bảo lưu tại văn hoá phương Đông: Pháo đỏ, câu đối đỏ, tranh Tết đều có mầu đỏ.
Tết là sự trình diễn những món ăn dân tộc: Giò, chả, vây bóng, thịt mỡ dưa hành.
Như bất cứ lễ hội nào Tết cũng có những thủ tục và những điều kiêng kị. Thủ tục tắm gội tất niên, mặc quần áo mới, nói lời hay ý đẹp, chúc tụng nhau năm mới, hái lộc, xuất hành, khai bút.v.v... Đời Lý Trần có tục lệ rất hay: Trai gái nhà nghèo tự ý ăn ở lấy nhau lúc Giao thừa. Kiêng kị ăn nói thô tục rất thường xảy ra trong dân dã đời thường, kiêng quét nhà đổ rác ngày đầu năm mới (sợ mất lộc), người có tang kiêng đến nhà người khác đầu năm mới v.v...
Sau 3 ngày hay 5 ngày, người ta làm lễ và cỗ cúng hoá vàng, đốt tiền giấy và tiễn tổ tiên về lại thế giới của người đã khuất. Từ dương phần người đang sống, tổ tiên trở lại chốn âm phần.
Từ phút Giao thừa, sự sống hồi sinh tới ngày 7 thì được coi là hoàn toàn hồi phục.
Mồng 7 tết là ngày Khai hạ, hạ nêu coi như mừng kết thúc Tết. Người ta lại làm lễ mở cửa rừng nơi rừng núi để dân đi lại vào rừng tự do. Người ta lại làm lễ khai ấn ở các công thự quan lại và triều đình.
Mọi sinh hoạt đời thường được xem là tiếp tục và sau đó lại là một mùa làm ăn mới.
Tết thời nay
Dương lịch được chính thức áp dụng trong các công sở Đông Dương từ thời thuộc Pháp. Nhưng người dân nông thôn, tiểu nông, tiểu thương thì vẫn sinh hoạt theo lịch truyền thống, từ các lễ hội cho đến các phiên chợ quê...
Sau đó, Dương lịch không chỉ dừng ở công sở, nhà máy, trường học - nay đã tăng lên rất nhiều - mà bắt đầu xâm nhập vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, qui định thời vụ mới...
Hệ văn hoá dân gian với cái Tết và các tết, với các lễ hội truyền thống tới những năm cuối của thập kỷ 50 thì vẫn vậy. Nhưng từ đó thì Lễ hội gần như đứt đoạn và gần như bị cấm đoán ngăn trở một cách không chính thức. Nhiều cái tết con nhạt nhoà dần. Riêng Tết Cả, Tết Nguyên Đán thì vẫn tỏ rõ sức sống mãnh liệt hơn.
Trong thời gian trước sau Tết Cả thì tập tục vẫn còn khá mạnh; nhịp điệu làm việc của Quý I hàng năm theo Dương lịch vẫn không thật khẩn trương. Giêng ngày xưa là tháng ăn chơi. Tháng Giêng ngày nay càng là tháng ăn chơi và chơi ăn. Người ta chú trọng chơi hơn là ăn và có ăn cũng đi xa, đến nnhững miền đất lạ để ăn những của lạ. Người giầu đi du lịch nước ngoài; đại gia đi canavan; giới trẻ thời nay chọn đi phượt. Thôi thì đủ kiểu lên rừng xuống biển. Nhiều người mải miết chơi bời đến quên cả tổ tiên, ông bà cha mẹ, quên cả.
GS-TS Nguyễn Trọng Đàn