;
Đức Phật thăm một Tỳ-kheo bị bệnh - Tranh vẽ mô tả theo Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b
Vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940, tại Đức, Adolf Hitler đã thực hiện một chương trình tiêu diệt trẻ em khuyết tật (có sự cho phép của cha mẹ chúng hoặc không đồng ý) với chiêu bài cải thiện “chủng tộc” Aryan và giảm chi phí cho xã hội.(1)
Cách làm này ngày nay gọi là “an tử” (Euthanasia) nhưng trừ phi bệnh nhân tự nguyện như trường hợp Christian de Duve (nhà tế bào và sinh hóa học người Bỉ, đoạt giải Nobel), sau một thời gian dài mắc bệnh ung thư, ông xin được chết theo luật “an tử”.
Tính hợp pháp của luật “an tử” (The legality of euthanasia) đã được hợp pháp tại Bỉ, Canada, v.v… kể từ năm 2021, song phần lớn một số bang tại Hoa Kỳ xem đó là bất hợp pháp.(2) Vấn đề này cũng liên quan đến Tăng đoàn thời Phật, nhiều tỳ-kheo lúc bệnh đau đã tự sát, làm dấy lên nhiều tranh cãi cho đến nay.
Lâu nay vẫn có nhiều nhà hành trì luật Phật giáo tại Việt Nam hiểu nhầm là tỳ-kheo tự sát và giết người đều phạm ba-la-di như nhau, kể cả các nhà Phật học ở Trung Quốc hay một số nước khác cũng cho rằng việc tự tử đồng phạm tội giết người, là hành động tàn ác (heinous act), tạo nghiệp cực trọng.(3)
Có lẽ quan điểm số đông nhìn từ câu chuyện, do các tỳ-kheo tu quán bất tịnh, nhờm tởm thân xác hôi thối rồi tự sát, hoặc nhờ ngoại đạo Migalaṇḍa kết liễu mình. Trong luật Tứ phần, Thập tụng, Căn bản chỉ nêu câu chuyện như vậy rồi Phật chế giới.
Nhưng trong luật Ngũ phần ngoài câu chuyện trên còn kể thêm, có tỳ-kheo bệnh nặng không muốn sống nữa, nhờ các tỳ-kheo đưa dao, thuốc độc... cho mình tự sát, hoặc nhờ các tỳ-kheo tìm thợ săn đến giết mình.
Lại có tỳ-kheo khuyên tỳ-kheo bệnh tự sát để sanh thiên, hay khuyên cư sĩ tại gia bỏ đời sống khổ cực, tự sát để thanh thản sinh thiên. Và luật Tăng-kỳ cũng thuật: tỳ-kheo bệnh nặng không muốn sống, bảo tỳ-kheo nuôi bệnh giết mình. Hoặc tỳ-kheo nuôi bệnh không dám giết, xúi tỳ-kheo bệnh tự sát bằng dao, thuốc độc…, hay nhờ Migalaṇḍa kết liễu tỳ-kheo bệnh.
Với nhiều tình tiết như vậy khiến đức Phật kết đi kết lại nhiều lần mới thành giới văn cuối cùng. Luật Ngũ phần ghi đức Phật kết giới 5 lần; luật Tăng-kỳ nói kết 4 lần. Giới văn tổng kết được Phật chế trong các văn bản luật Hán dịch thống nhất như sau:
Tỳ-kheo nào cố ý tự tay đoạt lấy mạng sống con người, hoặc tìm cách đem dao cho người ấy, hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết, hoặc xúi giục đưa đến sự chết: “Này nam tử, còn gì cho ông với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ông còn tốt hơn sự sống!”... người kia do vậy mà chết, thì tỳ-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung. (4)
Riêng giới văn luật Ngũ phần 2 (p. 8b2) dịch: Tỳ-kheo nào, hoặc người, hoặc tương tợ người, hoặc tự sát, hoặc đưa dao hay thuốc độc để giết; hoặc dạy người giết, hoặc dạy tự vẫn, hay khen ngợi sự chết, khích lệ cho chết... (5)
Từ “tự sát 自殺” trong luật Ngũ phần giải thích: “Tự mình dùng tay chân, cầm dao, gậy, thuốc độc cùng các vật để giết”,(6) tức chính mình giết người khác, không phải tự mình giết mình, nên đồng nghĩa với cụm từ “tự tay đoạt lấy mạng sống con người” trong luật Tứ phần, Tăng-kỳ (tự thủ đoạn nhân mạng 自手斷人命), Thập tụng (tự đoạt mạng 自奪命), Căn bản, Giải thoát giới kinh (tự thủ đoạn kỳ mạng 自手斷其命).(7)
Tương đương văn Phạn: svahastaṃ manuṣyavigrahaṃ jīvitād vyāparopeya. [8] Chỉ có luật Pāli Nam truyền không có chữ ‘tự’: Yo pana bhikkhu sañcicca manussavuggahaṃ jīvitā voropeyya (Tỳ-kheo nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người) (9)…
Vậy rõ ràng giới văn Phật chế, nhắm đến tỳ-kheo tự tay giết người, hoặc đưa dao, thuốc độc, dạy bảo, khen ngợi người khác chết...mới phạm ba-la-di, chứ không đề cập chuyện tỳ-kheo tự sát phạm ba-la-di.
Thời Phật, việc tỳ-kheo tự sát không chết chỉ phạm ở đột-kiết-la, bởi vì hầu hết các bộ luật và Kinh tạng đều nói, khi tỳ-kheo có ý nghĩ tự sát là lâm vào tình trạng bệnh tình không thể điều trị, tâm lý muốn chết, với bối cảnh thời Phật như xã hội ngày nay đều cảm thông thương tưởng với người bệnh nặng muốn tự sát, do vậy chỉ xử phạt nhẹ là đúng với tinh thần khoan dung của Phật giáo.
Truyền thống khổ hạnh cổ đại của Ấn-độ nói chung, tự sát được coi là một phương tiện thích hợp trong những hoàn cảnh nhất định, đặc biệt nổi tiếng về mặt này là Kỳ-na giáo (Jainism) thường thực hành “Sallekhanā”, gốc từ Phạn: Sallikhita, có nghĩa là “gầy đi”, “đào thải”, hoặc “cắt bỏ” những đam mê và cơ thể bằng cách kiêng ăn uống dần dần.
Hay nói cách khác như là lời thề phát nguyện đối mặt với cái chết, khi một người sắp chết, hoặc một người không thể tuân theo các quy tắc tôn giáo do tuổi già, bệnh nan y hoặc tình trạng đói kém phổ biến.
Người ta tìm thấy trong văn bản kinh cổ Acharanga của phái Svetambara (thuộc Kỳ-na giáo) có niên đại từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ I trước Tây lịch, đề cập đến phương pháp Sallekhana: người muốn thực hiện lời thề này sẽ chọn một nơi vắng vẻ, nằm trên giường làm bằng rơm, không cử động chân tay và tránh đồ ăn thức uống cho đến khi chết; hoặc người đó ngủ trên mặt đất; hay có thể ngồi, đứng, đi bộ hoặc di chuyển, nhưng tránh thức ăn cho đến khi chết. Cũng có thể đứng “như một cái cây”, không ăn uống cho đến chết.(10)
Loại tư tưởng này ảnh hưởng cả Phật giáo không ngoại trừ, cho nên chúng ta thấy trong Thiện kiến luật (11, p. 752c19) chép rằng, nếu tỳ-kheo leo lên núi cao nhảy xuống tự vẫn, muốn kết thúc mạng sống nhanh chóng thì phạm đột-kiết-la, nhưng bệnh nặng biết sẽ chết, quyết định nhịn đói, không dùng thuốc chữa trị để chết. Chết một cách từ từ thì vô tội.
Tuy nhiên, trong các bản luật khác chúng ta tìm thấy nhiều dấu vết đức Phật không cho phép tỳ-kheo bệnh tự sát như:
Luật Tăng-kỳ tường thuật 3 câu chuyện tỳ-kheo bệnh nặng lâu ngày làm tỳ-kheo nuôi bệnh mệt mỏi. Tỳ-kheo nuôi bệnh than vãn, khiến tỳ-kheo bệnh khởi niệm muốn chết, dẫn đến tình huống: (a) Tỳ-kheo bệnh nhờ tỳ-kheo nuôi bệnh giết giùm; (b) tỳ-kheo bệnh nhờ tỳ-kheo nuôi bệnh tìm người khác đến giết mình; (c) tỳ-kheo nuôi bệnh khuyên tỳ-kheo bệnh tự sát.
Cả ba trường hợp này đều bị Phật quở trách, Phật còn dạy người bệnh cần được chăm sóc và cung cấp mọi thứ cần thiết cho họ.(11) Hoặc luật Ngũ phần ghi rõ Phật cấm tự sát và tỳ-kheo bệnh lúc được khuyên chết không muốn chết, mà hy vọng hết bệnh tiếp tục tu Phạm hạnh.(12)
Trong Ma-đắc-lặc-già (mātṛkā, luận của luật) chép, tỳ-kheo nuôi bệnh phải chăm sóc tỳ-kheo bệnh cẩn thận, tùy bệnh mà cho ăn uống và dùng thuốc, nếu để tỳ-kheo bệnh chết, thì tỳ-kheo nuôi bệnh phạm thâu-lan-giá.(13)
Luật Thập tụng: có tỳ-kheo bệnh nặng, suy nghĩ không thể sống được bèn lao xuống hố sâu tự sát; bản thân không chết mà đè lên con cáo chết. Phật dạy vô tội nhưng không vì chuyện nhỏ nhặt như vậy mà tự sát.(14)
Chính trong Thiện kiến luật cũng ký tải, “Phật bảo các tỳ-kheo chớ có tự sát, tự sát là tự giết mình... cho đến tuyệt thực không ăn”.(15) Đây là điểm mâu thuẫn chính trong nội dung tác phẩm Thiện kiến luật.
Nói chung loại truyền thống tư tưởng cổ đại trên tuy có tác động vào Tăng đoàn thời Phật nhưng đức Phật không chấp nhận loại tự nguyện chọn cái chết như thế, có những nhà tu khổ hạnh thời kỳ Phật giáo bộ phái vẫn muốn áp dụng khai mở cho vấn đề này nên biên soạn bổ túc thêm vào Luật tạng của mình.
Qua các tư liệu dẫn chứng trên cho thấy, đức Phật không chủ trương bệnh nặng nên tuyệt thực để chết. Tóm lại, thời đức Phật, Ngài không cho phép tự sát dưới bất cứ hình thức nào, chẳng qua Tăng đoàn ảnh hưởng tín ngưỡng tôn giáo, coi thân xác là ngục tù đày đọa, tự sát hay nhờ người khác giết hộ là con đường giải thoát. Sau cái chết là một đời sống vinh quang được hứa hẹn. Để ngăn chặn loại tư tưởng truyền thống cổ đại này bắt buộc đức Phật chế giới để ngăn chặn.
Ngày 17 tháng 9, Nhâm dần
Chú thích:
1. https://medicine.missouri.edu/.../health.../faq/euthanasia.
2. https://www.law.cornell.edu/wex/euthanasia.
3. 唐秀連, 具足戒律中自殺獲罪問題之省思 (On the Problem of Treating Suicide as a crime in the Upasampadā), Taiwan Journal of Religious Studies 19 (2), p. 118.
4. Tứ phần 2, p. 576b26, Tăng-kỳ 4, p. 255a8, Thập tụng 2, p. 8b12 v.v…
5. 五分律 2, T22, no. 1421, p. 8b2-6: 若比丘,若人、若似人,若自殺、若與刀藥殺、若教人殺、若教自殺,譽死、讚死…
6. 五分律 2, p. 8b08.
7. 根本說一切有部毘奈耶 7, T23n1442, p. 660a27-b3; 解脫戒經, T24n1460, p. 660a1-5.
8 Mahāsāṃghikānāṃ prātimokṣasūtram (http://dhammatalks.net/.../sc2016/sc/skt/skt-mg-bu-pm.html); Cf. Ma-ha-tăng-kỳ luật đại tỳ-kheo giới bổn (摩訶僧祇律大比丘戒本,T22n1426, p. 549c12), tự thủ đoạt nhân mạng 自手奪人命.
9. Nam truyền Pāli: Vin. iii. 68 (經分別, N01, no. 1, p. 98a11-13).
10. Cf. Sundara, A. “Nishidhi Stones and the ritual of Sallekhana” (PDF). International School for Jain Studies. Archived from the original (PDF) on 28 February 2018. Retrieved 21 April 2017; Kakar, Sudhir (2014), “A Jain Tradition of Liberating the Soul by Fasting Oneself”, Death and Dying, Penguin UK, p. 174; Williams, Robert (1991), Jaina Yoga: A Survey of the Mediaeval Śrāvakācāras, Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0775-4; Anālayo, The Mass Suicide of Monks in Discourse and Vinaya Literature, p. 21 (PDF).
11. 摩訶僧祇律 4, p. 253c10 – p. 254ba16.
12. Ibid., 2, p. 8a6-18.
13. 薩婆多部毘尼摩得勒伽 4, T23, no. 1441, p. 590a11-13.
14. 十誦律 58, p. 436c12-17.
15. 善見律毘婆沙 11, p. 752c19.