;
Ý nghĩa chữ Thần Chú như trước đã giải thích là lời nói bí mật của
chư Phật (Mật ngôn hay Phật ngôn), lời nói đặc biệt này chỉ có các đức Phật
trong mười phương nghe biết mà nó không phải là thứ ngôn ngữ thường tình của
các chúng sanh trong ba cõi sử dụng, cho nên những thứ ngôn ngữ này người phàm
phu không thể nào hiểu rõ. Những ai muốn chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương
gia hộ những khổ đau của cuộc đời chỉ cần hành trì Thần Chú được chỉ dẫn sẽ
được linh ứng theo sở cầu.
Thần
Chú của Mật Tông có nhiều loại và mỗi loại có công dụng riêng, nhưng các Thiền
Gia trong các Thiền Môn chỉ chọn khoảng một số Thần Chú để sử dụng trong các
buổi lễ như Cầu An, Cầu Siêu, Sám Hối, v.v... gồm có Thần Chú Lăng Nghiêm, Thần
Chú Đại Bi và mười Thần Chú khác gọi là Thập Chú. Ý Nghĩa và công dụng các Thần
Chú nói trên được giải thích như sau :
1)-
Chú Lăng Nghiêm :
Công
dụng của Thần Chú Lăng Nghiêm, theo Triết Lý Đạo Phật hay Đại Cương Kinh Lăng
Nghiêm trong Phật Học Phổ Thông Khoá VI và VII của Hoà Thượng Thích Thiện Hoa,
trang 255 và 266 đức Phật nói : "Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề không
thể trừ được, ông (chỉ ông A Nan) nên dạy họ chí tâm trì chú Lăng-nghiêm này thì
các nghiệp chướng đều tiêu diệt" và đức Phật nói tiếp : "Sau khi ta
diệt độ các chúng sanh đời sau, nếu có người trì tụng chú này thì các tai nạn:
thủy tai, hoả hoạn, thuốc độc, độc trùng, ác thú, yêu tinh, quỉ quái, v.v...
đều chẳng hại được".
Chúng
ta muốn đạt thành những ý nguyện cho cuộc sống được an lạc và thành quả trên
con đường giác ngộ giải thoát thì phải chuyên cần hành trì thâm nhập Chú Lăng
Nghiêm này để nhờ thần lực chuyển hoá. Điều đó chính đức Phật đã nói trong Kinh
Lăng Nghiêm : "Ma Đăng Già là kẻ dâm nữ, không có tâm tu hành còn được
thành quả Thánh, huống chi các ông là bậc Thanh văn, có chí cầu đạo vô thượng,
lại trì tụng chú này, thì quyết định thành Phật rất dễ, cũng như thâu gió tung
bụi, chẳng có khó gì."
2)
- Chú Đại Bi :
Theo
Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni giải thích : "Hồi đời quá khứ vô lượng ức kiếp, có đức Phật
Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời vì ngài Quán Thế Âm mà nói ra chú Đại Bi này.
Lúc đó Ngài mới trụ bực Sơ Địa, sau khi nghe chú này rồi thì siêu chứng lên bậc
Bát Địa liền, Ngài thấy hiệu nghiệm như vậy liền phát đại nguyện rằng:
"Nếu qua đời vị lai có thể đem thần chú này ra làm lợi ích cho chúng sanh
thì cho thân Ngài sanh ra ngàn cái tai ngàn con mắt," v.v...
Ngài
nguyện vừa xong thì quả nhiên tay mắt đều đầy đủ tất cả và lại được chư Phật
Phóng quang soi đến thân Ngài, đồng thời soi khắp vô biên thế giới. Khi ấy Ngài
lại phát nguyện nữa rằng : "Người nào nếu trì tụng chú này mỗi đêm 5 biến
thì đặng tiêu hết những tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức kiếp, đến lúc
mạng chung thì có thập phương chư Phật hiện thân tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ. Bằng
như người nào trì tụng chú này mà sau còn đọa vào ba đường ác và chẳng đặng
sanh về cõi Phật hay chẳng đặng những pháp Tam Muội, chẳng biện tài, sở cầu
không toại chí, nếu có mấy sự ấy, thì chú này không được xưng là Đại Bi Tâm Đà
La Ni". Chỉ trừ những người tâm không thiện, chí không thành và lòng hay
nghi thì không thấy hiệu nghiệm được liền mà thôi.
Theo
Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh, trang 74 giải thích :
"Thuở ấy, đức Quán Thế Âm rất kín nhiệm phóng ra hào quang lớn chiếu cả
mười phương các cõi nước đều rực rỡ thành màu vàng ròng; rồi chấp tay bạch Phật
rằng: Tôi có thần chú.... Đại Bi tâm Đà La Ni, nay tôi muốn nói ra để cho các
chúng sanh đều đặng an lạc, vì nó có hiệu lực : tiêu trừ bệnh hoạn, tuổi sống
lâu dài, thêm điều lành, dứt hết các tội, được toại tâm với sự mong cầu, nên
được Phật hứa cho thuyết chú."
Đây
là những sự linh ứng và diệu dụng của Thần Chú Đại Bi.
3)-
Chú Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni :
Theo
Như Ý Tâm Đà La Ni: Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại vì muốn cho chúng sanh tùy ý sở cầu
cái gì cũng được như nguyện nên Ngài bạch với Phật xin Ngài thuyết chú này.
Những người trì tụng mà rõ được nghĩa thâm mật của chú này thì cái thắng lợi ấy
cũng thí như cây như ý sanh ra những ngọc bảo châu như ý, tuỳ nguyện muốn cầu
việc gì cũng được.
Lúc
Bồ Tát thuyết chú này rồi, sáu chưởng chấn động, cung điện của Ma Vương đều nổi
lửa cháy sợ hãi không cùng, các loài độc ác chúng sanh đều lăn nhào té ngã, còn
những kẻ thọ khổ trong địa ngục và ngạ quỷ thì đều đặng sanh về cõi Trời.
Người
nào nhứt tâm trì tụng chú này thì các thứ tai nạn đều được tiêu trừ mà đến lúc
lâm chung lại được thấy đức Phật A Di Đà và Ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn về cõi
Tịnh Độ.
4)
- Thần Chú Tiêu Tai Cát Tường :
Theo
Kinh Tiêu tai Cát Tường : "Khi Phật ở tại từng trời Tịnh Cư nói với các
thiên chúng cùng các vị quản lý 28 ngôi sao và 12 cung thần rằng : "Có chú
Xí Thạnh Quảng Đại Oai Đức Đà La Ni" của Phật Ta La Vương đã nói hồi
trước. Ta nay thuyết ra đây là pháp để trừ những tai nạn. Nếu trong Đế đô quốc
giới có các vị đặc trách sao yêu tinh đến làm những điều chướng nạn, hay những
vị đặc trách sao quan hệ bổn mạng của nhân loại có gì bất tường phải lập đạo
tràng, rồi khắc ký mà niệm chú này 108 biến thì tai chướng tức thời trừ diệt
hết."
5)
- Thần Chú Công Đức Bảo Sơn :
Theo
Viên Nhơn Vãng Sanh có dẫn chứng Kinh Đại Tập nói rằng : "Nếu người tụng
chú này một biến thì công đức cũng như lễ Kinh Đại Phật Danh bốn vạn năm ngàn
bốn trăm biến (45.400), còn như phạm tội nặng đang đọa vào địa ngục A Tì mà
nhứt tâm trì tụng chú này thì trong lúc mạng chung chắc đặng sanh về bậc Thượng
Phẩm Thượng Sanh bên cõi Tịnh Độ mà đặng thấy Phật A Di Đà."
6)
- Thần Chú Phật Mẫu Chuẩn Đề :
Câu
chú này trích trong Kinh Chuẩn Đề. Bốn câu kệ đầu là : "Khể thủ quy y Tô
tất Đế," v.v... cho đến "Duy nguyện từ bi thùy gia hộ" là của
Ngài Long Thọ Bồ Tát. Trong bốn câu kệ :
*
Câu đầu là nói về Pháp Bảo : câu hai là nói về Phật Bảo; câu thứ ba là nói
về Tăng Bảo; câu thứ tư là nói mình xin nhờ ơn sự gia hộ của Tam Bảo.
*
Khể thủ quy y Tô Tất Đế : nghĩa là cúi đầu quy kính Pháp Viên Thành (pháp
nhiệm mầu). Chữ Tô Tất Đế : nguyên tiếng Phạn là Susidhi, Tàu dịch là Diệu
Thành Tựu, nghĩa là một pháp có năng lực thành tựu được hết thảy sự lý và thành
tựu đặng hết thảy tâm nguyện của chúng sanh rất mầu nhiệm.
*
Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi (cu đê) : nghĩa là thành tâm đảnh lễ bảy trăm
ức Phật. Chữ "Cu Chi" hay là "Cu Đê", nguyên tiếng Phạn là
"Koti", Tàu dịch là bách ức, nghĩa là trăm ức; cho nên trên đây nói
"thất cu chi" tức là số bảy trăm ức vậy.
*
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề : nghĩa là con nay xưng tán đức Đại Chuẩn
Đề. Chữ "Chuẩn Đề", nguyên tiếng Phạn là "Candi", Tàu dịch
có hai nghĩa : 1) Thi Vi, 2) Thành Tựu.
Thi
Vi : nghĩa là lời nguyện rộng lớn đúng nơi lý và dùng đại trí để dứt vọng
hoặc, vì đủ các nhơn hạnh để ra làm việc lợi tha cho chúng sanh, nên gọi là Thi
Vi.
Thành
Tựu : nghĩa là từ nơi pháp không mà hiện ra pháp giả rồi thành tựu đặng
pháp tịch diệt.
Sở
dĩ Chú này xưng là "Phật Mẫu Chuẩn Đề" là nói : Pháp là thầy và thiệt
trí, là mẹ của chư Phật, cho nên bảy trăm ức Phật đều dùng pháp "Chuẩn Đề
Tam Muội" mà chứng đạo Bồ Đề.
Trong
kinh Chuẩn Đề nói rằng : Khi Phật ở vườn Kỳ Đà vì có tứ chúng bát bộ đông đủ,
Ngài nghĩ thương những chúng sanh đời mạt pháp sau này, tội dày phước mỏng, nên
mới nhập "Chuẩn Đề Định" mà thuyết thần chú như vầy:
Nam
Mô Tát Đa Nẩm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẩm, Đát Điệt Tha, Án, Chiết Lệ Chủ
Lệ Chuẩn Đề, Ta bà Ha.
Phật
nói : Nếu trì chú này mãn chín mươi vạn (900.000) biến thì diệt trừ được
các tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng; cho đến nhà thế tục chẳng luận tịnh
hay uế, chỉ cần chí tâm trì tụng, liền được tiêu trừ tai nạn bệnh hoạn, tăng
trưởng phước thọ. Khi tụng mãn 49 ngày, Bồ Tát Chuẩn Đề khiến hai vị Thánh
thường theo người ấy hộ trì.
Nếu
có người hoặc cầu mở trí tuệ, hoặc cầu chống tai nạn, hoặc cầu pháp thần thông,
hoặc cầu đạo Chánh Giác, chỉ y theo pháp thiết lập đàn tràng, tụng đủ một trăm
vạn (1.000.000) biến thì đặng đi khắp mười phương Tịnh Độ, phụng thờ chư Phật,
nghe cả diệu pháp mà được chứng quả Bồ Đề.
7)
- Thần Chú Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni :
Chú
này trích trong Kinh Đại Thừa Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương
Như Lai Đà La Ni. Kinh ấy nói : "Đức Thích Ca Thế Tôn nghĩ thương chúng
sanh đoản mạng trong đời vị lai, muốn cho thêm được thọ số, hưởng được hạnh
phúc, nên Phật nói với Đại Trí Huệ Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng: những nhơn loại
ở trong cõi Diêm Phù Đề này thọ mạng chỉ đặng trăm tuổi, mà ở trong số đó lại
có phần đông người tạo lắm điều ác nghiệp nên bị tổn đức giảm kỷ thác yểu chết
non. Nếu như nhơn loại thấy đặng chú này, hoặc biên chép, hoặc ấn tống, hoặc
thọ trì đọc tụng thì lại tăng thọ mạng sống ngoài trăm tuổi và qua đời sau mau
chứng quả Bồ Đề."
8)
- Thần Chú Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn :
Thần
chú này được trích ra từ nơi Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công
Đức. Theo như trong kinh, đức Thích Ca Như Lai nói nếu có chứng bệnh gì mà cứ
nhứt tâm trì chú này trong nước tịnh thủy đủ 108 biến rồi uống vào thì các bệnh
đều lành.
Còn
như những người mà trọn đời thọ trì chú này thì đặng khỏi bệnh tật và được sống
lâu, đến lúc mạng chung lại được sanh về cõi Tịnh Lưu Ly. Nhưng phải biết rằng
: chú này được gọi là "Quán Đảnh" là nói chú này do nơi đảnh quang
của Phật mà thuyết ra. Người nào nếu thọ trì đọc tụng chú này mà đặng thanh
tịnh ba nghiệp (thân, miệng, ý) thì hào quang Phật chiếu ngay đến nơi đảnh môn
của người trì tụng ấy một cách mát mẻ như rưới nước cam lồ vậy.
Nên
biết ánh quang của Phật khác hơn ánh quang của ma, nguyên vì ánh quang của ma
thì chói loà khiến cho người ta sợ hãi, còn ánh quang của Phật thì mát mẻ và
làm cho ta vui mừng. Vậy ai là người thọ trì chú này hoặc niệm Phật cần phải
phân biệt rõ hai cái ánh quang nói trên. Chớ đừng thấy ánh quang của ma lập lòe
trước mắt như ngoại đạo nhìn nến, như kẻ nhìn nhang kia mà nhận lầm cho là thấy
tánh.
9)-
Thần Chú Quán Âm Linh Cảm Chơn Ngôn :
Đức
Quán Thế Âm có lòng Đại Bi rất tha thiết, bi nguyện của Bồ Tát rất thâm sâu,
công đức độ sanh của Bồ Tát lan rộng khắp mười phương. Người nào thành tâm trì
tụng chú này thì liền được lòng Đại Bi của Bồ Tát chắc chắn ủng hộ.
10)
- Thần Chú Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn :
Chú
này được trích ra từ trong kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni. Kinh này nói :
"Ngài Văn Thù Sư Lợi nghĩ thương về sau đến đời mạt pháp các chúng Tỳ Kheo
phạm tội Tứ Trọng và các chúng Tỳ Kheo Ni phạm tội Bát Trọng thì làm sao mà sám
hối đặng, nên mới cầu Phật chỉ rõ phương pháp. Lúc ấy Đức Thích Ca Như Lai mới
thuyết ra chú này; vì chú này là chú của bảy vị Phật đời trước thường nói, rất
có oai lực làm diệt hết các tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch mà đặng phước vô
lượng".
Tứ
Trọng, Ngũ Nghịch là tội rất nặng, nếu không phải cách sám hối vô sanh thì
tưởng không thể nào tiêu diệt cho đặng. Nhưng vì thần chú này là bảy vị Phật
đời trước xứng tánh thuyết ra, cho nên những người trì tụng niệm niệm cũng phải
xứng tánh để đặng lý vô sanh thì tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, cũng như
nước sôi đổ vào tuyết thì tuyết liền bị tan biến ngay lập tức.
11)
- Thần Chú Vãng Sanh Tịnh Độ :
Thần
chú này được trích từ trong kinh Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh
Tịnh Độ Đà La Ni. Thần chú này có công dụng diệt được các trọng tội như : tội
Tứ Trọng, Ngũ Nghịch, Thập Ác, Hủy Báng Chánh Pháp. Người nào nếu y pháp mà chí
tâm trì tụng chú này thì Đức Phật A Di Đà thường trụ ở nơi đảnh đầu người ấy
luôn cả ngày đêm mà ủng hộ, không cho oan gia thừa tiện nhiễu hại, trong lúc
hiện thế đặng an ổn và đến khi mạng chung được vãng sanh Tịnh Độ.
Cách
thức hành trì, Trước khi trì tụng chú này, hành giả phải tắm rửa, súc miệng cho
sạch sẽ, ngày đêm sáu thời, thắp hương lễ Phật, quì gối trước bàn thờ, chấp tay
cung kính trì tụng mỗi thời tối thiểu 21 biến thì được linh ứng và hoặc trì
tụng được ba vạn (300.000) biến thì được thấy đặng Phật A Di Đà thọ ký.
12)
- Thần Chú Thiện Thiên Nữ :
Thần
chú này được trích từ trong kinh Kim Quang Minh. Trong kinh Kim Quang Minh nói
rằng : "Nếu chúng sanh nghe nói chú này mà một lòng thọ trì đọc tụng hương
hoa cúng dường thì những thứ thọ dụng như vàng, bạc, châu báu, trâu dê, lúa
thóc đều đặng đầy đủ hết thảy".
VI.-
TỔNG KẾT :
Nên
để ý các Kinh Chú của Phật để lại trong Đại Tạng thì rất nhiều, đa dạng theo
mỗi vị Phật trình bày mỗi cách qua kinh nghiệm tu tập của mình. Các Thiền gia
thời xưa qua kinh nghiệm của họ rút ra trong Đại tạng một số Kinh Chú theo nhu
cầu phổ thông chẳng những cho quần chúng mà cho cả người xuất gia trong thời mạt
pháp nghiệp trọng phước khinh ma cường pháp nhược này. Những Kinh Chú mà các
Thiền gia chọn ra để trì tụng là của những vị Phật, những vị Bồ Tát rất quan hệ
với các chúng sanh nơi cõi Ta bà ngũ trược ác thế này. Còn các Kinh Chú khác
của các vị Phật hay của các vị Bồ Tát khác chỉ quan hệ nhiều với các chúng sanh
trong các cõi khác không có ngũ trược ác thế như cõi Ta Bà này. Những Kinh Chú
mà các Thiền gia chọn ra để hành trì có những mục đích như sau :nguoiphattu.com
1)-
Những Kinh Tụng nêu trên ngoài sự Tu Huệ của hành giả và còn nhờ sự gia hộ của
chư Phật, chư Bồ Tát quan hệ giúp hành giả sớm hoàn thành hạnh nguyện đạt đạo.
2)-
Còn các Kinh khác nhằm tu tập bao gồm Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ trong lãnh vực
tự độ và tự giác mà không cần sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát quan hệ, được
gọi là tự lực cánh sinh.
3)-
Các Thần Chú nêu trên mà các Thiền gia chọn lựa được rút ra trong các Kinh Tạng
của chư Phật chỉ dạy để các hành giả hành trì ngõ hầu đạt được ý nguyện mà
không bị phân tâm, không bị loạn tưởng, không bị tẩu hoả nhập ma.
4)-
Còn các Thần Chú khác một số không thấy trong các Kinh Phật mà chỉ thấy trong
Mật Tông nếu như hành trì mà thiếu sự hướng dẫn chơn truyền qua sự kinh nghiệm
của những người đi trước thì sẽ bị nguy hiểm phân tâm, loạn tưởng, tẩu hoả nhập
ma.
Các
Thiền gia Việt Nam cũng chọn những Kinh những Chú đã được liệt kê ở trước ngoài
những mục đích và ý nghĩa vừa trình bày còn có mục đích khác là thể hiện văn
hoá Phật Giáo Việt Nam mà các Thiền gia Việt Nam đem sự đạt đạo xây dựng quốc
gia. Nhìn theo Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam, Nhị Thời Khoá Tụng mà các Thiền gia
Việt Nam thường sử dụng trong khoá lễ hằng ngày dành cho các Thiền sinh hành
trì, ngoài sự tu tập để chứng đắc và còn tiêu biểu cho ba hệ phái Thiền đã từng
đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lãnh vực văn hoá trải dài hơn 2000 năm
lịch sử. Điều đó được thấy như :
a)-
Thiền phái Vô Ngôn Thông, Thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ đã từng đóng góp xây dựng
cho quốc gia Việt Nam trên lãnh vực thuần tuý thiền tập.
b)-
Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã từng đóng góp xây dựng cho quốc gia Việt Nam
trên lãnh vực Thiền Mật Tổng Hợp.
c)-
Thiền Phái Thảo Đường đã từng đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lãnh vực
Thi Ca và Nghệ Thuật.
d)-
Thiền phái Liễu Quán đã từng đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lãnh vực
Thiền Tịnh Song Tu. Từ những ý nghĩa và giá trị này, chúng ta là người Việt Nam
không nên xem thường Nhị Thời Khoá Tụng mà Thiền gia Việt Nam đã chọn và cũng
chứng minh rằng các Thiền gia Việt Nam nhờ Nhị Thời Khoá Tụng này được chứng
đắc, cho nên mới để lại cho hậu thế hành trì./.
Sưu tập trong Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh dịch và trong Bạch Y Thần Chú của Đường Sáng Ấn Quán số 712N. 9th St, San Jose, CA 95112 ấn hành.
Nguồn: Chùa Khánh Anh